TIN NỔI BẬT
CPA VIETNAM tham dự Hội nghị Liên đoàn Kế toán ASEAN lần thứ 24Ngành chứng khoán trước làn sóng IPO: Tái định giá và kỳ vọng vốn ngoạiTiền gửi dân cư tại các tổ chức tín dụng đạt khoảng 8 triệu tỷ đồngĐề nghị rà soát quy định thu hồi và giá đất trong Dự thảo Nghị quyết gỡ vướng thi hành Luật Đất đaiLàn sóng IPO 2025: Chu kỳ mới trên TTCK Việt NamTài chính số - Động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tếCục Thuế mở giai đoạn “thử nghiệm thực hành” cho hộ kinh doanh sau khi xoá bỏ thuế khoánChung cư hạng sang chiếm lĩnh thị trường nhà ở Hà NộiĐấu giá bốn khu "đất vàng" hơn 750 tỷ đồng tại Ninh BìnhGần 40.000 tỷ đồng từ xổ số miền Nam nộp vào ngân sách sau 9 thángINFOGRAPHIC: Lộ trình chuyển đổi số ngành Tài chính đến năm 2030Nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam: Cột mốc cải cách và tầm nhìn 2030Trái phiếu ngân hàng chiếm 73% huy động vốn toàn thị trườngThị trường nhà ở Đà Nẵng ghi nhận xu hướng phục hồi tích cựcVAMC sắp được trao thêm quyền và trách nhiệm xử lý nợ xấuSửa Luật Bảo hiểm tiền gửi: Tăng phân cấp, thêm cơ chế cho vay đặc biệt 0%Dự báo lợi nhuận doanh nghiệp tăng 25%, thị trường chứng khoán bứt tốcGiải mã nhịp sóng thất thường của thị trường chứng khoán ViệtBa trụ cột kiến tạo mô hình tăng trưởng mới cho Việt NamBộ Tài chính lấy ý kiến sửa đổi Thông tư số 118/2020/TT-BTC về chứng khoán

05 trường hợp được Quỹ bảo lãnh tín dụng xem xét xử lý rủi ro

Từ ngày 15/10/2019, cơ chế xử lý rủi ro của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ thực hiện theo Thông tư số 57/2019/TT-BTC ngày 26/8/2019 của Bộ Tài chính. Theo đó, Thông tư này đã quy định cụ thể 05 trường hợp và các điều kiện để doanh nghiệp nhỏ và vừa được xem xét xử lý rủi ro.

Theo đó, 5 trường hợp được Quỹ bảo lãnh tín dụng xem xét xử lý rủi ro gồm:

Một là, khách hàng bị thiệt hại về tài chính, tài sản do thiên tai, mất mùa, dịch bệnh, hỏa hoạn, rủi ro chính trị, chiến tranh gây ra ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến khách hàng không trả được nợ (gốc, lãi) đúng hạn theo hợp đồng nhận nợ bắt buộc đã ký.

Hai là, khách hàng bị phá sản theo quy định của pháp luật hiện hành.

Ba là, Nhà nước thay đổi chính sách làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, dẫn đến khách hàng không trả được nợ (gốc, lãi) đúng hạn theo hợp đồng nhận nợ bắt buộc đã ký.

Bốn là, khách hàng gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan khác ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến khách hàng không trả được nợ (gốc, lãi) đúng hạn theo hợp đồng nhận nợ bắt buộc đã ký.

Năm là, khách hàng có khoản nợ xấu (từ nhóm 3 đến nhóm 5) theo kết quả phân loại nợ theo quy định tại khoản 1 Điều 36 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP của Chính phủ.

Bên cạnh đó, Thông tư số 57/2019/TT-BTC cũng nêu rõ, để được xóa nợ gốc, khách hàng phải đáp ứng các điều kiện sau: Gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh dẫn đến kết quả sản xuất kinh doanh của hai năm liền kề trước năm đề nghị xóa nợ gốc bị lỗ và còn lỗ lũy kế, không trả được một phần hoặc toàn bộ nợ gốc đúng hạn theo hợp đồng nhận nợ bắt buộc đã ký, có tổn thất về vốn, tài sản; trường hợp khách hàng được xóa một phần nợ gốc phải có phương án sản xuất kinh doanh và phương án trả nợ còn lại khả thi sau khi được xóa một phần nợ gốc (trừ trường hợp khách hàng bị phá sản).

Trích nguồn

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *