Tỷ giá trung tâm giảm 3 đồng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) bơm ròng 9.345,96 tỷ đồng ra thị trường hay chỉ số VN-Index giảm 4,36 điểm… là một số thông tin kinh tế đáng chú ý trong ngày 10/4.
Tin trong nước
Thị trường ngoại tệ phiên 10/4, NHNN niêm yết tỷ giá trung tâm ở mức 23.600 VND/USD, giảm 3 đồng so với phiên cuối tuần trước.
Giá bán USD được Sở giao dịch NHNN niêm yết ở mức 24.730 VND/USD, giảm 3 đồng so với phiên trước; giá mua USD được niêm yết ở mức 23.450 VND/USD.
Trên thị trường liên ngân hàng, tỷ giá đô – đồng chốt phiên với mức 23.445 VND/USD, giảm 5 đồng so với phiên 7/4.
Tỷ giá đô – đồng trên thị trường tự do giảm 40 đồng ở chiều mua vào và 20 đồng ở chiều bán ra, giao dịch tại 23.370 VND/USD và 23.450 VND/USD.
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng ngày 10/4, lãi suất chào bình quân liên ngân hàng VND tăng 0,02 điểm phần trăm ở các kỳ hạn ngắn trong khi giảm 0,03 điểm phần trăm ở kỳ hạn 2 tuần và đi ngang ở kỳ hạn 1 tháng so với phiên cuối tuần trước, cụ thể: qua đêm 5,08%; 1 tuần 5,22%; 2 tuần 5,30% và 1 tháng 5,56%.
Lãi suất chào bình quân liên ngân hàng USD tăng 0,01 điểm phần trăm ở hầu hết các kỳ hạn ngoại trừ không thay đổi ở kỳ hạn 1 tháng, giao dịch tại: qua đêm 4,64%; 1 tuần 4,76%; 2 tuần 4,89%, 1 tháng 5,0%.
Lợi suất trái phiếu chính phủ trên thị trường thứ cấp giảm ở tất cả các kỳ hạn, cụ thể: 3 năm 2,77%; 5 năm 2,85%; 7 năm 2,99%; 10 năm 3,27%; 15 năm 3,39%.
Nghiệp vụ thị trường mở hôm qua, trên kênh cầm cố, NHNN chào thầu 15.000 tỷ đồng kỳ hạn 7 ngày và 15.000 tỷ đồng kỳ hạn 28 ngày, đều với lãi suất 5,0%, có 7.106,85 tỷ đồng trúng thầu ở kỳ hạn 7 ngày, 2.239,11 tỷ đồng ở kỳ hạn 28 ngày; không có khối lượng đáo hạn. NHNN không chào thầu tín phiếu NHNN, không có khối lượng đáo hạn.
Như vậy, NHNN bơm ròng 9.345,96 tỷ đồng ra thị trường; khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố tăng lên mức 14.946,87 tỷ đồng, khối lượng tín phiếu lưu hành giữ ở mức 110.699,8 tỷ đồng.
Thị trường chứng khoán hôm qua chịu áp lực chốt lời khiến chỉ số chính tiếp tục giảm. Kết thúc phiên giao dịch, VN-Index mất 4,36 điểm (-0,41%) còn 1.065,35 điểm; HNX-Index tăng nhẹ 0,40 điểm (+0,19%) lên mức 212,0 điểm; UPCoM-Index giảm 0,17 điểm (-0,22%) xuống 77,99 điểm. Thanh khoản thị trường ở mức cao với giá trị giao dịch gần 17.500 tỷ đồng. Khối ngoại bán ròng hơn 290 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Theo số liệu Tổng cục Hải quan vừa công bố, tháng 3/2023, cán cân thương mại cả nước thặng dư 1,39 tỷ USD, quý I/2023 thặng dư 4,81 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu cả nước tháng 3 đạt 29,71 tỷ USD, nhập khẩu đạt 28,32 tỷ USD. Lũy kế 3 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu đạt 79,3 tỷ USD, giảm 11,8% so với cùng kỳ năm 2022; nhập khẩu đạt 74,49 tỷ USD, giảm 15,4%. Kim ngạch xuất nhập khẩu quý I đạt 153,79 tỷ USD, giảm 13% so với quý I/2022.
Tin quốc tế
Trong báo cáo Triển vọng kinh tế Đông Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ 2023, OECD dự báo kinh tế khu vực này tăng 4,6% trong năm nay, thấp hơn so với mức tăng 5,6% của năm 2022. Nguyên nhân chính của sự giảm tốc trên là do kinh tế toàn cầu ảm đạm dưới áp lực lạm phát và lãi suất cao.
Trung Quốc, nền kinh tế lớn nhất châu Á được dự báo tăng trưởng 5,3% (+2,7 điểm phần trăm so 2022) do đã mở cửa trở lại, tuy nhiên có thể bị kìm hãm bởi sự gia tăng của Covid-19.
Trong khi đó, Ấn độ được đánh giá sẽ giảm tốc, chỉ tăng 5,9% (-1,0 điểm phần trăm). Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam được dự báo tăng trưởng 6,6% (-1,4 điểm phần trăm), Philippines 5,7% (-0,9 điểm phần trăm), Indonesia 4,7% (-0,6 điểm phần trăm), Malaysia 4,0% (-4,7 điểm phần trăm) và Thái Lan 3,8% (+1,2 điểm phần trăm).
Thu nhập bình quân của người dân Nhật Bản tăng 1,1% so với cùng kỳ trong tháng Hai, cao hơn mức tăng 0,8% của tháng trước đó, gần khớp với mức tăng 1,2% theo dự báo.
Tiếp theo, mức chi tiêu của các hộ gia đình Nhật Bản tăng 1,6% so với cùng kỳ trong tháng Hai sau khi ghi nhận mức giảm 0,3% ở tháng Một, tuy nhiên vẫn thấp hơn nhiều so với mức tăng 4,9% theo kỳ vọng. Các chuyên gia nhận định tỷ lệ tăng trưởng thu nhập của Nhật Bản quá thấp so với mức lạm phát 3,3% ghi nhận ở tháng Hai, tạo áp lực lớn cho người tiêu dùng nước này.
P.L
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế MSB