Ngày 4/12/2018, Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 163/2018/NĐ-CP quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp thay thế Nghị định số 90/2011/NĐ-CP ngày 14/10/2011 (Nghị định 90) nhằm tạo dựng khuôn khổ pháp lý mới cho các doanh nghiệp huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. Nghị định này được ban hành nhằm mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp theo hướng công khai, minh bạch, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư; từng bước mở rộng quy mô của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, giảm bớt gánh nặng huy động vốn cho kênh tín dụng ngân hàng.
Trái phiếu doanh nghiệp được phát hành theo 2 hình thức là phát hành ra công chúng và phát hành riêng lẻ. Trong đó, phát hành riêng lẻ là phát hành cho dưới 100 nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và không sử dụng phương tiện thông tin đại chúng hoặc Internet. Nghị định tập trung quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp theo hình thức riêng lẻ. Phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng thực hiện theo quy định của Luật Chứng khoán. Các nội dung chính của dự thảo Nghị định bao gồm:
Nới lỏng về điều kiện phát hành trái phiếu DN
Nghị định 90 quy định một trong các điều kiện phát hành trái phiếu là doanh nghiệp phải có lãi năm liền kề trước năm phát hành. Thực tế triển khai cho thấy điều kiện này tương đối chặt, tương đương với phát hành trái phiếu ra công chúng. Theo đó, một số doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu cho mục đích cơ cấu lại các khoản nợ không đáp ứng được điều kiện này nên không thể phát hành được trái phiếu để huy động vốn.
Ảnh minh họa: Nguồn Internet
Trên cơ sở đánh giá quá trình triển khai Nghị định 90, Nghị định 163 quy định theo hướng nới lỏng về điều kiện phát hành để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. Theo đó, Nghị định bỏ điều kiện doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải có lãi năm liền kề trước năm phát hành tại Nghị định 90. Đồng thời quy định cụ thể về điều kiện để doanh nghiệp phát hành trái phiếu thành nhiều đợt để cho phép doanh nghiệp phát hành trái phiếu để huy động vốn làm nhiều đợt phù hợp với tiến độ thực hiện dự án đầu tư.
Phân biệt rõ kênh phát hành riêng lẻ với kênh phát hành ra công chúng.
Nghị định 90 quy định phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ là phát hành trái phiếu cho dưới 100 nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chuyên nghiệp và không sử dụng phương tiện thông tin đại chúng hoặc internet. Quy định này thực hiện theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán (Khoản 3 Điều 1).
Thực tế cho thấy hầu hết các đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp là phát hành theo phương thức riêng lẻ. Các doanh nghiệp không phát hành ra công chúng để huy động vốn. Một số doanh nghiệp thực hiện phát hành riêng lẻ sau đó niêm yết, giao dịch trái phiếu trên Sở Giao dịch chứng khoán để tránh việc phát hành trái phiếu ra công chúng.
Quy định tại Nghị định 163: Nghị định quy định trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ cho dưới 100 nhà đầu tư không bao gồm nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Theo Vụ Tài chính ngân hàng và các tổ chức tín dụng quy định này để định hướng nhà đầu tư mua trái phiếu là nhà đầu tư chuyên nghiệp, phân biệt rõ kênh phát hành riêng lẻ với kênh phát hành ra công chúng theo quy định tại Luật Chứng khoán. Đối với giao dịch trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ, Nghị định quy định trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ bị hạn chế giao dịch trong phạm vi 100 nhà đầu tư trong vòng một năm kể từ ngày phát hành, sau một năm, trái phiếu được tự do giao dịch không bị hạn chế về số lượng nhà đầu tư. Để quản lý số lượng nhà đầu tư, Nghị định quy định TPDN riêng lẻ sau khi phát hành phải lưu ký trái phiếu tại tổ chức lưu ký trái phiếu được phép. Quy định này cũng góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch và thúc đẩy giao dịch TPDN.
Hoàn thiện hồ sơ phát hành TPDN theo hướng rõ ràng, minh bạch
Trên cơ sở đánh giá quá trình triển khai Nghị định 90 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp, tại Nghị định 163 các quy định liên quan đến hồ sơ phát hành trái phiếu đã được hoàn thiện theo hướng rõ ràng, thuận tiện cho các doanh nghiệp trong triển khai thực hiện. Theo đó, quy định báo cáo tài chính trong hồ sơ phát hành trái phiếu là báo cáo tài chính được kiểm toán chấp thuận toàn phần hoặc có ý kiến ngoại trừ, trường hợp có ý kiến ngoại trừ, doanh nghiệp phát hành phải giải thích về yếu tố ngoại trừ và ảnh hưởng của yếu tố này đến khả năng trả nợ gốc, lãi trái phiếu của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, quy định cụ thể về việc sử dụng báo cáo tài chính trong hồ sơ phát hành đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu trong vòng 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính chưa có báo cáo tài chính được kiểm toán của năm liền kề trước năm phát hành. Quy định cụ thể về việc sử dụng báo cáo tài chính trong trường hợp doanh nghiệp phát hành trái phiếu là công ty mẹ.
Trách nhiệm và nội dung công bố thông tin của doanh nghiệp phát hành TPDN
Nghị định 90 chưa quy định cụ thể về chế độ công bố thông tin đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Thông tin về tình hình phát hành TPDN mới được Bộ Tài chính tổng hợp trên cơ sở báo cáo của doanh nghiệp phát hành.
Thực tế, ý thức chấp hành chế độ thông tin, báo cáo của doanh nghiệp phát hành trái phiếu chưa tốt nên chưa hình thành được cơ sở dữ liệu tập trung, thống nhất về TPDN. Điều này đã dẫn đến khó khăn cho nhà đầu tư khi có nhu cầu mua trái phiếu (không biết thông tin về các trái phiếu đang lưu hành để mua), đối với doanh nghiệp có nhu cầu phát hành trái phiếu cũng không có thông tin về các đợt phát hành TPDN để tham khảo, cơ quan quản lý cũng chưa có thông tin toàn diện, đầy đủ về thị trường TPDN.
Để khắc phục những hạn chế trên, Nghị định 163 quy định cụ thể về (i) trách nhiệm và nội dung công bố thông tin của doanh nghiệp phát hành cho nhà đầu tư và Sở GDCK, bao gồm công bố thông tin trước khi phát hành, công bố thông tin về kết quả phát hành, công bố thông tin định kỳ và công bố thông tin bất thường và (ii) quy định về việc thiết lập chuyên trang thông tin tập trung về TPDN do Sở GDCK quản lý và vận hành trên cơ sở tận dụng cơ sở hạ tầng đã có sẵn để quản lý tập trung toàn bộ thông tin về thị trường TPDN phát hành riêng lẻ. Quy định tại Nghị định nhằm nâng cao tính công khai, minh bạch của việc huy động vốn trái phiếu, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và nhà đầu tư tham gia vào huy động vốn. Với việc thiết lập chuyên trang về TPDN tại Sở GDCK, thông tin, cơ sở dữ liệu về tình hình phát hành TPDN và tình hình tài chính của doanh nghiệp phát hành sẽ được Sở GDCK tập hợp một cách thống nhất, chuyên nghiệp để cung cấp cho nhà đầu tư, doanh nghiệp phát hành trái phiếu và cơ quan quản lý khai thác.
Thẩm quyền chấp thuận phương án phát hành trái phiếu đối với DNNN:
Nghị định 90 quy định phương án phát hành trái phiếu của DNNN phải được chủ sở hữu xem xét, chấp thuận trước khi tổ chức phát hành. Tuy nhiên, trên thực tế, quy định về thẩm quyền chấp thuận phương án phát hành trái phiếu tại Nghị định 90 (được ban hành năm 2011) chưa đồng bộ với các văn pháp luật mới được ban hành như Luật Quản lý sử dụng vốn, Nghị định 219/2013/NĐ-CP về quản lý vay, trả nợ nước ngoài không có bảo lãnh của Chính phủ.
Để thống nhất với quy định tại Luật quản lý sử dụng vốn và tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát hành trái phiếu để huy động vốn, Nghị định 63 quy định theo hướng (i) đối với phát hành TPDN trong nước của DNNN, doanh nghiệp được chủ động huy động vốn (vay vốn ngân hàng hoặc phát hành TPDN) với giá trị thấp hơn 50% vốn chủ sở hữu và hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu dưới 3 lần; trường hợp vượt giới hạn này thì phải được chấp thuận của cơ quan đại diện chủ sở hữu; (ii) đối với TPDN phát hành quốc tế, phương án phát hành trái phiếu phải được cơ quan đại diện chủ sở hữu chấp thuận theo quy định của Nghị định số 219/2013/NĐ-CP về quản lý vay trả nợ nước ngoài.
Theo đơn vị soạn thảo Nghị định 163 đánh giá, việc Chính phủ ban hành Nghị định 163 thay thế Nghị định 90 là một trong các yếu tố để phát triển thị trường TPDN, tạo điều kiện thuận lợi cho cả doanh nghiệp phát hành TPDN và các đối tượng có nhu cầu mua TPDN, đồng thời nâng cao tính công khai, minh bạch trong quá trình huy động vốn trái phiếu. Qua đó, giải quyết được khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trong việc phát hành TPDN riêng lẻ, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp huy động vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, giảm lệ thuộc vào kênh tín dụng ngân hàng.
So với kênh huy động trái phiếu, các doanh nghiệp ưa thích huy động vốn qua kênh tín dụng ngân hàng do điều kiện dễ dàng hơn, doanh nghiệp không phải công bố công khai thông tin. Do vậy, để phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp theo hướng cân bằng với thị trường tín dụng ngân hàng, nhằm dịch chuyển kênh huy động vốn tín dụng ngân hàng sang kênh phát hành trái phiếu, bên cạnh việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và thực hiện các giải pháp để phát triển thị trường TPDN còn phải thực hiện các giải pháp của thị trường tín dụng ngân hàng, như (i) yêu cầu các tổ chức tín dụng chỉ sử dụng nguồn vốn huy động trung, dài hạn để cho vay trung, dài hạn; không sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn (ii) yêu cầu các tổ chức tín dụng tuân thủ giới hạn cho vay đối với 1 khách hàng (không vượt quá 15%).
Trích nguồn