Tiếp tục giữ trần chi phí lãi vay 30% đối với giao dịch liên kết.
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 132/2020/NĐ-CP quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết. Theo đó, tiếp tục giữ nguyên quy định mức trần chi phí lãi vay 30%, cho chuyển tiếp chi phí lãi vay sang 5 năm tiếp theo.
Th11
Chứng khoán ngày 9/11 qua ‘lăng kính’ kỹ thuật.
VN-Index được BVSC dự báo sẽ dao động trong vùng giá kẹp giữa cận trên 940-945 điểm và cận dưới 925-930 điểm trong tuần tới, trước khi có diễn biến tích cực hơn vào những phiên cuối tuần. Theo VDSC, diễn biến của thị trường có thể vẫn theo hướng dần hạ nhiệt và điều chỉnh ngắn để kiểm tra lại cung cầu và tìm điểm cân bằng trước khi có tín hiệu cụ thể hơn.
Th11
Công ty tôi dự thầu 1 gói thầu có giá trị xây lắp được duyệt là 4,4 tỷ đồng; gồm chi phí xây dựng, chi phí hạng mục chung, chi phí dự phòng. Tuy nhiên, hồ sơ mời thầu chỉ mời hạng mục xây lắp và hạng mục chung, không có phần dự phòng. Xin hỏi, đây là hợp đồng trọn gói, chi phí dự phòng có được tính trong giá dự thầu không? Nếu được tính thì tách riêng giá dự phòng hay phân bổ vào giá dự thầu của từng mục đầu công việc? Nếu giá dự phòng được phân bổ vào trong giá dự thầu của từng đầu công việc, khi thanh, quyết toán mà không phát sinh khối lượng thì giá trị dự phòng có bị cắt bỏ không?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 Thông tư số 10/2015/TT-BKHĐT ngày 26/10/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giá gói thầu được xác định trên cơ sở tổng mức đầu tư của dự án. Trường hợp dự toán đã được phê duyệt trước khi lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu thì căn cứ dự toán để lập giá gói thầu. Giá gói thầu được tính đúng, tính đủ toàn bộ chi phí để thực hiện gói thầu, kể cả chi phí dự phòng (chi phí dự phòng trượt giá, chi phí dự phòng phát sinh khối lượng và chi phí dự phòng cho các khoản tạm tính (nếu có)), phí, lệ phí và thuế. Đối với các gói thầu có thời gian thực hiện hợp đồng ngắn, không phát sinh rủi ro, trượt giá thì chi phí dự phòng được tính bằng không. Chi phí dự phòng do chủ đầu tư xác định theo tính chất từng gói thầu nhưng không được vượt mức tối đa do pháp luật chuyên ngành quy định. Giá gói thầu được cập nhật trong thời hạn 28 ngày trước ngày mở thầu nếu cần thiết. Theo đó, chi phí dự phòng thực hiện theo quy định nêu trên. Khi áp dụng loại hợp đồng trọn gói, nhà thầu được thanh toán bằng đúng giá ghi trong hợp đồng khi hoàn thành các nghĩa vụ theo hợp đồng theo quy định tại Khoản 1 Điều 62 Luật Đấu thầu.
Đơn vị của tôi là bên mời thầu. Trong quá trình xem xét, đánh giá E-HSDT, đơn vị tôi gặp tình huống như sau:
Một gói thầu xây lắp có 2 nhà thầu tham dự: Công ty A, công ty B.
– Phương pháp đánh giá E-HSDT:
Đánh giá về năng lực và kinh nghiệm: Sử dụng tiêu chí đạt/không đạt;
Đánh giá về kỹ thuật: Sử dụng tiêu chí đạt/không đạt;
Đánh giá về giá: Sử dụng phương pháp giá thấp nhất.
– Quy trình đánh giá: Áp dụng quy trình 01 theo Thông tư số 04/2017/TT-BKHĐT ngày 15/11/2017:
Bước 1: Đánh giá tính hợp lệ của E-HSDT; Bước 2: Đánh giá về năng lực và kinh nghiệm; Bước 3: Đánh giá về kỹ thuật; Bước 4: Xếp hạng nhà thầu.
– E-HSDT của các nhà thầu: Công ty A, công ty B đều đạt về năng lực, kinh nghiệm và kỹ thuật. Công ty B có giá dự thầu thấp hơn công ty A. Tuy nhiên, bản vẽ biện pháp tổ chức thi công phần khung tên của công ty B ghi người thực hiện là 2 nhân sự (X, Y) trong đề xuất dự thầu của công ty B, nhưng phần ghi tên công ty thì bản vẽ ghi tên công ty A chứ không phải công ty B.
Qua tìm hiểu được biết, công ty A và công ty B có mâu thuẫn với nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Với tình huống nêu trên, đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, hướng dẫn việc đánh giá E-HSDT của nhà thầu. Công ty nêu trên có vi phạm pháp luật về đấu thầu theo Điểm b Khoản 3 Điều 89 Luật Đấu thầu hay không?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau: Theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 89 Luật Đấu thầu, một trong các hành vi bị cấm trong đấu thầu là thỏa thuận để một hoặc nhiều bên chuẩn bị hồ sơ dự thầu cho các bên tham dự thầu để một bên thắng thầu. Theo đó, trường hợp hồ sơ dự thầu của hai nhà thầu có dấu hiệu thông đồng thì bên mời thầu yêu cầu nhà thầu giải thích, làm rõ. Sau khi giải thích, làm rõ, nếu bên mời thầu có bằng chứng về việc các nhà thầu thỏa thuận để một hoặc nhiều bên chuẩn bị hồ sơ dự thầu cho các bên tham dự thầu để một bên thắng thầu thì bị coi là hành vi bị cấm nêu trên. Trường hợp xác định nhà thầu không có hành vi thông thầu như đã nêu thì hồ sơ dự thầu được tiếp tục đánh giá theo nguyên tắc quy định tại Khoản 1 Điều 15 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ
Tôi là nhà đầu tư nước ngoài cư trú tại Việt Nam (có thẻ thường trú từ năm 2006 do Công an TPHCM cấp và được gia hạn liên tục, thời gian gia hạn của lần cuối cùng là đến năm 2027).
Năm 2007, tôi có chuyển khoản góp vốn từ tài khoản cá nhân ở nước ngoài vào tài khoản thanh toán của một công ty TNHH Việt Nam và tham gia trực tiếp điều hành hoạt động kinh doanh của công ty đó cho tới nay với số vốn góp trên 51% và được Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh công ty TNHH 2 thành viên như một công ty Việt Nam và không cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Cho tôi hỏi, theo Thông tư số 06/2019/TT-NHNN, tôi là người nước ngoài cư trú thì có cần mở tài khoản đầu tư trực tiếp để chuyển lợi nhuận được chia ra nước ngoài hay không? Nếu như theo quy định mới người nước ngoài cư trú như tôi cũng phải mở tài khoản đầu tư trực tiếp thì trong thủ tục với ngân hàng có cần phải có Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hay không?
Tôi đã tham khảo ý kiến của Sở Kế hoạch và Đầu tư TPHCM và được trả lời: Vì công ty TNHH đã hình thành và hoạt động trước khi tôi góp vốn nên nếu bây giờ tôi xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (để phục vụ cho việc mở tài khoản đầu tư trực tiếp) thì Sở sẽ cấp cho công ty, chứ không cấp riêng cho cá nhân tôi và trên Giấy chứng nhận việc đầu tư của tôi sẽ không được thể hiện đã có từ hơn 10 năm trước.
Như vậy, trường hợp của tôi sẽ được hiểu là mới thực hiện đầu tư, trong khi sự việc này đã diễn ra từ rất lâu, gây thiệt thòi cho tôi.
Cho tôi hỏi, việc chuyển lợi nhuận được chia theo tỷ lệ góp vốn (sau khi đã hoàn thành tất cả các nghĩa vụ đối với nhà nước Việt Nam) của tôi sẽ phải thông qua tài khoản nào của công ty tôi góp vốn? Nếu phải thông qua tài khoản đầu tư trực tiếp mới vừa mở thì phần lợi nhuận của các năm trước chưa chuyển vào tài khoản cá nhân tôi ở nước ngoài có được chuyển tiếp đi hay không hay chỉ chuyển được lợi nhuận phát sinh từ sau khi mở tài khoản đầu tư trực tiếp mà thôi? Lợi nhuận tồn từ các năm trước của tôi muốn chuyển ra nước ngoài thì phải làm sao?
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trả lời vấn đề này như sau: Hiện nay, quy định quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện theo Pháp lệnh Ngoại hối (đã sửa đổi, bổ sung), Nghị định số 70/2014/NĐ-CP ngày 17/7/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Ngoại hối, Thông tư số 06/2019/TT-NHNN ngày 26/6/2019 hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Tại Khoản 1 Điều 3 Thông tư số 06/2019/TT-NHNN quy định: “Nhà đầu tư nước ngoài” bao gồm: Cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Khoản 2 Điều 3 Thông tư số 06/2019/TT-NHNN quy định: “Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm: … b) Doanh nghiệp không thuộc trường hợp quy định tại Điểm a khoản này có nhà đầu tư nước ngoài sở hữu từ 51% vốn điều lệ trở lên của doanh nghiệp…”. Khoản 1 Điều 4 Thông tư số 06/2019/TT-NHNN quy định: “Nhà đầu tư nước ngoài được thực hiện góp vốn đầu tư bằng ngoại tệ, đồng Việt Nam theo mức góp vốn của nhà đầu tư tại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, …, tài liệu khác chứng minh việc góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài phù hợp với quy định của pháp luật”. Khoản 3 Điều 4 và Khoản 1 Điều 9 Thông tư số 06/2019/TT-NHNN quy định: “Việc góp vốn đầu tư bằng tiền của nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư Việt Nam phải được thực hiện thông qua hình thức chuyển khoản vào tài khoản vốn đầu tư trực tiếp; nhà đầu tư nước ngoài phải chuyển lợi nhuận và các nguồn thu hợp pháp liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thông qua tài khoản vốn đầu tư trực tiếp”. Căn cứ các quy định nêu trên, từ thời điểm Thông tư số 06/2019/TT-NHNN có hiệu lực, doanh nghiệp có nhà đầu tư nước ngoài là người cư trú tham gia góp vốn từ 51% vốn điều lệ trở lên[...]
Đơn vị tôi đang thi công gói thầu xây lắp theo đơn giá cố định, theo nguồn vốn của nước ngoài, trong hồ sơ dự thầu có nêu công việc và danh sách nhà thầu phụ. Tôi xin hỏi, sau khi nhà thầu chính và nhà thầu phụ đã ký hợp đồng với nhau theo đúng giá trị nêu trong hồ sơ dự thầu thì nhà thầu phụ có thể ký thêm hợp đồng B' với nhà thầu chính không?
Bộ Xây dựng trả lời vấn đề này như sau: Theo nội dung hỏi, đây là hợp đồng thi công xây lắp sử dụng nguồn vốn nước ngoài, nhưng không nêu cụ thể là nguồn vốn ODA hay nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI nên Bộ Xây dựng không đủ cơ sở để hướng dẫn cụ thể. Trường hợp hợp đồng này thuộc phạm vi điều chỉnh quy định tại Điều 1 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP ngày 22/4/2015 của Chính phủ quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng, đề nghị bà Lan căn cứ các quy định tại Điều 47 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP về hợp đồng thầu phụ; Điểm a Khoản 2 Điều 128 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu, hồ sơ mời thầu và các quy định của pháp luật có liên quan để thực hiện cho phù hợp.
