TIN NỔI BẬT
CPA VIETNAM Chúc mừng kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam 22/12Hộ kinh doanh không được trừ ngưỡng 500 triệu khi nộp thuế giá trị gia tăngThực hiện các mục tiêu Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế là nhiệm vụ chung của toàn hệ thống chính trịVụ chuyển nhượng “đất vàng” trái phép: Kiến nghị chấn chỉnh hoạt động thẩm định giáThủ tướng Chính phủ: Cần kiểm soát giá bất động sảnBộ Xây dựng trả lời về nguyên nhân khiến giá bất động sản tăng caoThủ tướng chỉ đạo sớm lập Sàn giao dịch vàng quốc gia và phát hành trái phiếu dự án, công trình trọng điểmThị trường phân hóa tích cực, thanh khoản tiếp tục giảm mạnhPhổ biến quy định phòng, chống rửa tiền trong lĩnh vực bảo hiểmĐổi mới tư duy, xây dựng chính sách tài sản công sát bám sát thực tiễnGần 400 hồ sơ chào bán chứng khoán được xử lý trong năm 2025Giá bất động sản vượt khả năng chi trả của người dân, Bộ Xây dựng đề xuất 6 giải pháp tháo gỡDẫn hướng dòng tiền cho tăng trưởng bền vữngThu ngân sách 2025 đạt 2,47 triệu tỷ đồng, ước vượt dự toán 25%.Bộ Tài chính lấy ý kiến sửa ba thông tư lĩnh vực chứng khoánBộ Tài chính tổng hợp, tiếp thu ý kiến sửa đổi quy định quản lý quỹ đầu tưBẢN TIN PHÁP LUẬT THÁNG 12/2025CPA VIETNAM nhận Quyết định của Bộ Tài chính và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước về việc chấp thuận kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng năm 2026Tạo lực cho thị trường vàng trang sức từ "sàn vàng" quốc giaFed nới lỏng tiền tệ, nhu cầu trú ẩn vào vàng vẫn chiếm ưu thế
Chương trình Ngày hội hiến máu tình nguyện tại Công ty TNHH Kiểm toán CPA VIETNAM

Sáng ngày 15/4/2020, tại trụ sở Công ty TNHH Kiểm toán CPA VIETNAM (hội viên tổ chức VACPA) đã phối hợp cùng Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương thực hiện chương trình hiến máu tình nguyện [...]

Tôi đóng BHXH đuợc 4 năm có, do công ty nợ BHXH nên tôi không chốt được sổ BHXH. Sau đó tôi chuyển công việc và đóng BHXH tại công ty mới. Nay công ty cũ trả hết số tiền nợ BHXH nên tôi làm thủ tục chốt sổ BHXH tại công ty cũ. Vậy tôi có được nhận BHXH một lần không?

Bảo hiểm xã hội Việt Nam trả lời vấn đề này như sau: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc thì người lao động đủ điều kiện để hưởng BHXH một lần thuộc một trong các trường hợp sau: – Đủ tuổi hưởng lương hưu nhưng đóng BHXH chưa đủ 20 năm đóng BHXH hoặc 15 năm đóng BHXH và không tiếp tục tham gia BHXH tự nguyện; – Ra nước ngoài định cư; – Sau một năm nghỉ việc nếu không đóng BHXH và có yêu cầu nhận trợ cấp BHXH 1 lần mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH; – Người đang bị mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như: Ung thư, bại liệt, sơ gan cổ chướng, phong, lao nặng, nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế. Trường hợp của bà hiện nay vẫn đang tham gia BHXH bắt buộc thì thời gian đã tham gia BHXH ở công ty cũ sẽ được cộng dồn với thời gian tham gia BHXH hiện nay để sau này được hưởng BHXH khi bà đủ điều kiện với mức hưởng cao hơn

Tôi sinh ngày 10/3/1971, đóng BHXH được 28 năm 5 tháng, có trên 20 năm công tác tại vùng có hệ số phụ cấp khu vực 0,7, hệ số lương hiện hưởng 4,27. Đầu năm 2020 tôi muốn đi giám định sức khỏe để nghỉ hưu trước tuổi có được không? Nếu được thì tính như thế nào? Nếu không được thì tôi có thể đóng BHXH tự nguyện đến khi đủ 30 năm để hưởng tối đa tỷ lệ lương hưu khi đủ năm 50 tuổi có được không?

Bảo hiểm xã hội Việt Nam trả lời vấn đề này như sau: Theo Điểm b Khoản 1 Điều 54 của Luật BHXH năm 2014 về điều kiện hưởng lương hưu đối với người lao động khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên: Nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến 55 tuổi và có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên. Tại Điều 55 Luật BHXH năm 2014 quy định về điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động, trong đó tại Khoản 1 có quy định lao động nữ khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên được hưởng lương hưu với mức thấp hơn nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Đến năm 2020 trở đi, nữ đủ 50 tuổi thì mới đủ điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên; Nữ đủ 45 tuổi và bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên. Đối chiếu quy định trên, đến đầu năm 2020 nếu kết quả khám giám định y khoa kết luận bà bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên thì bà đủ điều kiện nghỉ hưu trước tuổi nhưng sẽ bị trừ tỷ lệ hưởng lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi (trước 1 năm bị trừ 2%). Trường hợp của bà sẽ không bị trừ tỷ lệ hưởng lương hưu khi bà bảo lưu thời gian đã đóng BHXH đến tháng 4/2021 (khi bà đủ 50 tuổi). Vì theo bà nêu thì bà có trên 20 năm công tác tại vùng có hệ số phụ cấp khu vực 0,7 bà cũng có thể chọn đóng BHXH tự nguyện thêm 1 năm 7 tháng cho đủ 30 năm đóng BHXH thì khi đủ tuổi nghỉ hưu bà sẽ được hưởng tỷ lệ lương hưu tối đa 75%. Để đảm bảo quyền lợi của mình, đề nghị bà liên hệ với cơ quan BHXH nơi bà[...]

Trường hợp Giám đốc có quốc tịch Nhật Bản, không có giấy phép lao động, là chủ sở hữu công ty TNHH MTV tại Việt Nam có vốn đầu tư nước ngoài, nếu được hưởng lương hàng tháng thì có bắt buộc tham gia BHXH không?

Bảo hiểm xã hội TPHCM trả lời vấn đề này như sau: Tại Khoản 2 Điều 2 Luật BHXH số 58/2014/QH13 ngày 20/11/2014 quy định người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia BHXH bắt buộc. Điều 2 Nghị định số 143/2018/NĐ-CP ngày 15/10/2018 của Chính phủ quy định người lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc khi có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp và có hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 1 năm trở lên với người sử dụng lao động tại Việt Nam. Trường hợp người lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam theo diện di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp như quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 3/2/2016 của Chính phủ và người lao động đã đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại khoản 1 Điều 187 của Bộ luật Lao động thì không thuộc đối tượng đóng BHXH bắt buộc. Tại Điều 13 Nghị định số 143/2018/NĐ-CP quy định mức đóng và phương thức đóng của người sử dụng lao động, hàng tháng đóng trên quỹ tiền lương tháng đóng BHXH của người lao động như sau: Từ ngày 1/12/2018 đóng 3% vào quỹ ốm đau và thai sản; 0,5% vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; từ ngày 1/1/2022 đóng 14% vào quỹ hưu trí và tử tuất từ ngày 1/1/2022.

Đề nghị cơ quan chức năng giải đáp một số nội dụng sau: Nhà thầu tư vấn lập Báo cáo kinh tế kỹ thuật của công trình A có được tham gia cung cấp dịch vụ tư vấn quản lý dự án và tư vấn lựa chọn nhà thầu của công trình A không? Nếu có hoặc không thì theo quy định nào của pháp luật? Nhà thầu tư vấn quản lý dự án có được cung cấp dịch vụ tư vấn lựa chọn nhà thầu mà nhà thầu đã tham gia và đã hợp đồng tư vấn quản lý dự án không? Trường hợp tại tỉnh và huyện thời điểm phát sinh dự án xây dựng các công trình của xã để hoàn thành Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới của xã giai đoạn 2011-2020, cụ thể là từ năm 2018 đến tháng 11/2019 không có Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành, Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng khu vực, UBND xã do chưa có đủ năng lực nên đã thương thảo và ký hợp đồng thuê tư vấn quản lý dự án các công trình của xã. Vậy, trong trường hợp này xã ký hợp đồng thuê tư vấn quản lý dự án đầu tư xây dựng các công của xã có đúng quy định của pháp luật về xây dựng không? Nếu xã ký hợp đồng thuê tư vấn quản lý dự án đầu tư xây dựng là đúng quy định của pháp luật, trong trường hợp này khi xã nhập sang địa giới hành chính khác mà địa giới hành chính khác lại có Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản và phòng chuyên môn về xây dựng của địa giới hành chính mới đề nghị Chủ đầu tư (UBND xã) ký lại hợp đồng quản lý dự án các công trình phát sinh trước ngày 1/12/2019, ngày xã chưa nhập về địa giới hành chính mới với Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản của địa giới hành chính mới. Trong trường hợp này Chủ đầu tư (UBND xã) nên thực hiện như thế nào là đúng quy định của pháp luật, vì các hợp đồng đã ký đang có, còn hiệu lực thi hành. Có quy định nào của pháp luật về xây dựng khi điều chỉnh dự án đầu tư xây dựng, điều chỉnh thiết kế, dự toán xây dựng công trình, phạm vi công việc, giá trị dự toán điều chỉnh không vượt tổng mức đầu tư được duyệt, chủ đầu tư (người quyết định đầu tư) phải xin ý kiến của cơ quan có thẩm quyền cấp trên không phải là người quyết định đầu tư rồi mới được thực hiện điều chỉnh không? Trường hợp ở một đơn vị hành chính có quy chế làm việc mà khi điều chỉnh dự án đầu tư xây dựng, điều chỉnh thiết kế, dự toán xây dựng công trình, phạm vi công việc, giá trị dự toán điều chỉnh không vượt tổng mức đầu tư được duyệt, đều phải được sự chấp thuận, đồng ý của cơ quan có thẩm quyền không phải là người quyết định đầu tư mới được thực hiện việc điều chỉnh. Vậy, trong trường hợp này Chủ đầu tư nên thực hiện thế nào thì đúng quy định của pháp luật?

Cục Quản lý hoạt động xây dựng – Bộ Xây dựng trả lời như sau: Không cấm nhà thầu tư vấn đồng thời tham gia cung cấp dịch vụ khác Theo quy định của pháp luật về xây dựng thì không có quy định cấm việc nhà thầu tư vấn đồng thời tham gia lập Báo cáo kinh tế kỹ thuật, tham gia cung cấp dịch vụ tư vấn quản lý dự án và/hoặc tư vấn lựa chọn nhà thầu của cùng một công trình. Chủ đầu tư được thuê tổ chức, cá nhân quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình Căn cứ quy mô, tính chất nguồn vốn sử dụng và điều kiện thực hiện dự án, người quyết định đầu tư quyết định áp dụng hình thức tổ chức quản lý dự án đầu tư xây dựng được quy định tại khoản 1 Điều 62 Luật Xây dựng. Trường hợp dự án đầu tư xây dựng công trình có tổng mức đầu tư dưới 15 tỷ đồng, theo quy định tại khoản 8 Điều 1 Nghị định số 42/2017/NĐ-CP ngày 5/4/2017 của Chính phủ quy định: Chủ đầu tư sử dụng tư cách pháp nhân của mình và bộ máy chuyên môn trực thuộc có đủ điều kiện, năng lực để trực tiếp quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình có tổng mức đầu tư dưới 15 tỷ đồng; trường hợp không đủ điều kiện thực hiện, chủ đầu tư được thuê tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện năng lực theo quy định tại Nghị định này để thực hiện. Trường hợp đã thực hiện áp dụng mô hình Ban quản lý dự án phù hợp quy định nêu trên; hợp đồng xây dựng có hiệu lực khi đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 139 Luật Xây dựng. Thẩm quyền chấp nhận điều chỉnh dự án đầu tư xây dựng Việc điều chỉnh dự án đầu tư xây dựng được quy định tại Điều 61 Luật Xây dựng, trong đó có các quy định: – Việc điều chỉnh dự án sử dụng vốn nhà nước do người quyết định đầu tư quyết định. – Trường hợp điều chỉnh dự án làm thay đổi mục tiêu, quy mô, địa điểm xây dựng thì phải được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm[...]

Xin đề nghị giải đáp trường hợp sau: Thỏa thuận liên danh được ký kết ngày 27/9/2019 giữa công ty A liên danh với công ty B là liên danh công ty A + B (công ty A là thành viên đứng đầu liên danh, và công ty A sẽ thực hiện bảo lãnh cho cả liên danh). Bảo lãnh dự thầu chỉ bảo lãnh/thực hiện riêng lẻ cho công ty A nhưng giá trị bảo lãnh bằng với yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Thông báo bảo lãnh dự thầu được phát hành ngày 25/9/2019 của Ngân hàng (thời gian thực hiện bảo lãnh trước thời điểm 2 bên ký kết liên danh). Xin hỏi, bảo lãnh dự thầu này có hợp lệ không? Bảo lãnh dự thầu cho liên danh thực hiện trước khi thỏa thuận liên danh có hợp lệ không?

Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau: Theo quy định tại Khoản 2, Điều 18 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, hồ sơ dự thầu hợp lệ phải có bảo đảm dự thầu với giá trị và thời hạn hiệu lực đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Đối với trường hợp quy định bảo đảm dự thầu theo hình thức nộp thư bảo lãnh thì thư bảo lãnh phải được đại diện hợp pháp của tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam ký tên với giá trị và thời hạn hiệu lực, đơn vị thụ hưởng theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Theo đó, việc đánh giá tính hợp lệ của bảo đảm dự thầu thực hiện theo quy định của hồ sơ mời thầu, trên cơ sở quy định nêu trên và thuộc trách nhiệm của tổ chuyên gia, bên mời thầu.