Nghị quyết 115/NQ-CP: Cú hích thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Ngày 6/8/2020, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc ký ban hành Nghị quyết 115/NQ-CP về các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) với nhiều chính sách mới kỳ vọng sẽ tạo nên cú hích lớn cho công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo.
Th8
Tôi đang thực hiện thủ tục nhận chuyển nhượng dự án. Dự án bao gồm hạng mục sân golf và khu vực nhà hàng, khu nghỉ dưỡng, biệt thự, khách sạn. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ muốn nhận chuyển nhượng khu vực nhà hàng, khu nghỉ dưỡng, biệt thự, khách sạn, không bao gồm sân golf. Dự án đã được UBND tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Phần dự án muốn nhận chuyển nhượng đã được cấp Giấy chứng nhận; hình thức đất thuê trả tiền hàng năm. Tôi xin hỏi, khi thực hiện việc chuyển nhượng dự án nêu trên sẽ phải thực hiện quy định về chuyển nhượng dự án đầu tư theo quy định Luật Đầu tư hay thực hiện quy định chuyển nhượng dự án theo thủ tục tại Luật Kinh doanh bất động sản? Luật nào được ưu tiên áp dụng trong trường hợp này? Hiện tại, tôi thấy khái niệm dự án đầu tư, dự án kinh doanh bất động sản, dự án có sử dụng đất tồn tại trong Luật Đầu tư, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Đất đai chưa nhất quán gây nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng.
Bộ Xây dựng trả lời vấn đề này như sau: Theo quy định của pháp luật hiện hành thì, việc chuyển nhượng một phần dự án bất động sản chưa hoàn thành đầu tư xây dựng để tiếp tục đầu tư xây dựng được thực hiện theo quy định tại Mục 6 Chương II của Luật Kinh doanh bất động sản 2014 và Mục 5 Chương II của Nghị định số 76/2015/NĐ-CP ngày 10/9/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bất động sản; Trường hợp bán, chuyển nhượng bất động sản có sẵn là nhà, công trình xây dựng (không phải nhà ở) thì phải thực hiện theo các quy định tại Mục 1, Mục 2 Chương II của Luật Kinh doanh bất động sản 2014 và các quy định của pháp luật về dân sự, đất đai; Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại Mục 5 Chương II của Luật Kinh doanh bất động sản 2014 và các quy định của pháp luật về đất đai.
Công ty của tôi thực hiện công tác tư vấn xác định giá đất nhưng theo quy định hiện hành thì kinh phí chi trả dịch vụ tư vấn xác định giá đất có mâu thuẫn như sau: Khoản 1 Điều 5 Thông tư số 74/2015/TT-BTC ngày 15/5/2015 quy định: “1. Đối với các nội dung chi đã có định mức, tiêu chuẩn, đơn giá do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định thì thực hiện theo quy định hiện hành”. Như vậy, kinh phí tư vấn xác định giá đất được tính theo Thông tư số 20/2015/TT-BTNMT ngày 27/4/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Định mức kinh tế-kỹ thuật để lập dự toán ngân sách Nhà nước phục vụ công tác định giá đất là đúng quy định tại Khoản 1 Điều 5 Thông tư số 74/2015/TT-BTC. Trong thực tế, nhiều công trình, dự án kinh phí tư vấn xác định giá đất lập theo Thông tư số 20/2015/TT-BTNMT vượt mức trích theo quy định tại Điều 3 Thông tư số 74/2015/TT-BTC ngày 15/5/2015 (đa số vượt mức 2% hoặc 10% tổng số kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của dự án, tiểu dự án). Xin hỏi, trường hợp kinh phí xác định giá đất tính đúng, đủ theo khối lượng thực tế và định mức của Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành nhưng vượt mức trích theo quy định tại Điều 3 Thông tư số 74/2015/TT-BTC thì xử lý như thế nào? Ví dụ: Tổng kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của dự án A là 100 triệu đồng thì kinh phí được trích sẽ không quá 2 triệu đồng nhưng kinh phí định giá đất lập theo định mức là 11 triệu đồng?
Bộ Tài chính trả lời vấn đề này như sau: Khoản 1, Khoản 2 Điều 3 và Khoản 1 Điều 5 Thông tư số 74/2015/TT-BTC ngày 15/5/2015 của Bộ Tài chính quy định: “Điều 3. Nguồn và mức trích kinh phí bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và cưỡng chế kiểm đếm, cưỡng chế thu hồi đất 1. Nguồn kinh phí bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được trích không quá 2% tổng số kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của dự án, tiểu dự án; trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều này. 2. Đối với dự án, tiểu dự án thực hiện trên địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật về đầu tư; dự án, tiểu dự án xây dựng công trình hạ tầng theo tuyến, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường được lập dự toán kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của dự án, tiểu dự án theo khối lượng công việc thực tế và mức trích không khống chế tỷ lệ 2% tổng kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của dự án, tiểu dự án”. “Điều 5. Mức chi tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và cưỡng chế kiểm đếm, cưỡng chế thu hồi đất 1. Đối với các nội dung chi đã có định mức, tiêu chuẩn, đơn giá do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định thì thực hiện theo quy định hiện hành”. Căn cứ quy định nêu trên, đối với các nội dung chi tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và cưỡng chế kiểm đếm, cưỡng chế thu hồi đất đã có định mức, tiêu chuẩn, đơn giá do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định thì thực hiện theo quy định hiện hành; nhưng mức được trích không quá 2% tổng số kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của dự án, tiểu dự án (trừ dự án, tiểu dự án thực hiện trên địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn theo quy định của[...]
Nghị định 06/2020/NĐ-CP quy định bộ ngành có dự án đầu tư sẽ lập khung chính sách gửi Bộ TN&MT, tuy nhiên thực tế, đối với các dự án đi qua nhiều tỉnh, mỗi tỉnh sẽ có đặc thù khác nhau mà chỉ có cơ quan quản lý của từng địa phương mới có thể thu thập thông tin để lập thành khung chính sách cho từng địa bàn của mình. Tôi xin hỏi, đối với dự án thuộc thẩm quyền Nhà nước thu hồi đất thì từng tỉnh, thành phố có dự án đi qua sẽ lập riêng một khung chính sách cho địa bàn của mình rồi chuyển tới các bộ ban ngành có dự án đầu tư tổng hợp gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm tra trước khi trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hay bộ, ban ngành có dự án đầu tư phải đi thu thập số liệu để tự lập khung chính sách trình Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm tra trước khi trình Thủ tướng Chính phủ?
Bộ Tài nguyên và Môi trường trả lời vấn đề này như sau: Tại Điều 17 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất quy định: “Điều 17. Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư; dự án thu hồi đất liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư mà phải di chuyển cả cộng đồng dân cư, làm ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống, kinh tế – xã hội, truyền thống văn hóa của cộng đồng; dự án thu hồi đất liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện như sau: 1. Bộ, ngành có dự án đầu tư có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với UBND cấp tỉnh nơi có đất thu hồi xây dựng khung chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định và phải bảo đảm kinh phí cho việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định. Khung chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây: a) Diện tích từng loại đất dự kiến thu hồi; b) Số tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất trong khu vực dự kiến thu hồi đất; c) Dự kiến mức bồi thường, hỗ trợ đối với từng loại đối tượng thu hồi đất; dự kiến giá đất bồi thường đối với từng loại đất, từng loại vị trí; d) Phương án bố trí tái định cư (dự kiến số hộ tái định cư, địa điểm, hình thức tái định cư); đ) Dự kiến tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và nguồn vốn để thực hiện; e) Dự kiến tiến độ thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; g) Dự kiến thời gian và kế hoạch di chuyển,[...]
Công ty X làm chủ đầu tư dự án kết cấu hạ tầng khu công nghiệp. Dự án có nguồn vốn từ doanh nghiệp Nhà nước giữ 100% vốn. Dự án đã được cơ quan chuyên môn của tỉnh thẩm định dự án (gồm thiết kế cơ sở và tổng mức đầu tư) và đã phê duyệt thực hiện từ năm 2014 theo Luật Xây dựng năm 2003.
Hiện nay, trong quá trình đầu tư, dự án cần điều chỉnh tổng mức đầu tư và thiết kế cơ sở để phù hợp thực tế làm cơ sở tiếp tục triển khai hoàn thành dự án. Căn cứ quy định tại Khoản 5 Điều 16 Thông tư 18/2016/TT-BXD về thẩm định, phê duyệt dự án và thiết kế và dự toán xây dựng thì "Cơ quan chủ trì thẩm định dự án, thiết kế cơ sở điều chỉnh là cơ quan đã chủ trì thẩm định đối với dự án, thiết kế cơ sở được duyệt".
Tôi xin hỏi, dự án đầu tư kết cấu hạ tầng khu công nghiệp do công ty X đang làm chủ đầu tư như nêu trên, trước đây do cơ quan chuyên môn của tỉnh thẩm định dự án (gồm thiết kế cơ sở và tổng mức đầu tư) thì nay nếu điều chỉnh thiết kế cơ sở và tổng mức đầu tư có phải trình Bộ Xây dựng thẩm định thiết kế cơ sở điều chỉnh đối với dự án Nhóm A theo quy định tại Nghị định 59/2015/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng không?
Bộ Xây dựng trả lời vấn đề này như sau: Tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 42/2017/NĐ-CP ngày 5/4/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng quy định: “Đối với các dự án đầu tư xây dựng và thiết kế, dự toán xây dựng công trình, hạng mục công trình của dự án đã trình cơ quan có thẩm quyền thẩm định trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 59/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 6 năm 2015 về quản lý dự án đầu tư xây dựng; việc điều chỉnh dự án, thiết kế và dự toán xây dựng công trình của các dự án này nếu được thực hiện sau ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì phải thực hiện đầy đủ các quy định tại Nghị định này”. Thẩm quyền thẩm định điều chỉnh thiết kế cơ sở và tổng mức đầu tư xây dựng công trình được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 42/2017/NĐ-CP, không phải theo quy định tại Thông tư số 18/2016/TT-BXD ngày 30/6/2016 của Bộ Xây dựng quy định chi tiết và hướng dẫn một số nội dung về thẩm định, phê duyệt dự án và thiết kế, dự toán xây dựng công trình theo nguyên tắc áp dụng pháp luật hiệu lực cao hơn được quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tại Khoản 5 Điều 13 Thông tư số 18/2016/TT-BXD quy định: “Dự án sử dụng vốn hỗn hợp có phần tham gia bằng vốn ngân sách Nhà nước, vốn Nhà nước ngoài ngân sách từ 30% trở lên hoặc dưới 30% nhưng trên 500 tỷ đồng trong tổng mức đầu tư thì dự án được thẩm định như đối với dự án sử dụng vốn Nhà nước ngoài ngân sách”. Như vậy, trường hợp doanh nghiệp Nhà nước góp vốn trong công ty X để thực hiện dự án đầu tư xây dựng với tỷ lệ 30% trở lên hoặc dưới 30% nhưng trên 500 tỷ đồng trong tổng mức đầu tư của dự án nhóm A thì dự án được thẩm định như với dự án sử dụng vốn Nhà nước ngoài ngân[...]
Xin hỏi, bên mời thầu yêu cầu nộp kèm E-HSDT một bản hồ sơ dự thầu (HSDT) in giấy thì có đúng quy định không, và HSDT in này có đủ tư cách pháp nhân như E-HSDT đã nộp không?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 13 Thông tư số 04/2017/TT-BKHĐT, nhà thầu nhập thông tin theo yêu cầu của E-HSMT và đính kèm các file để tạo thành bộ E-HSDT. Đối với nội dung liên quan đến tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm của nhà thầu, nhà thầu kê khai trên webform mà không cần đính kèm bản scan các văn bản, tài liệu liên quan. Nhà thầu kiểm tra thông tin E-HSDT, nhấn vào nút “cam kết” trong giao diện đơn dự thầu và gửi E-HSDT lên Hệ thống. Theo quy định tại Khoản 3 Điều này, Hệ thống sẽ ghi lại các thông tin sau đây về việc nộp E-HSDT của nhà thầu: Thông tin về bên gửi, bên nhận, thời điểm gửi, trạng thái gửi, số file đính kèm lên Hệ thống để làm căn cứ giải quyết kiến nghị, tranh chấp (nếu có). Việc nộp hồ sơ dự thầu khi đấu thầu qua mạng thực hiện theo quy định nêu trên và không được yêu cầu nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu bản giấy trực tiếp đến bên mời thầu.
