Kính gửi Bộ Tài Chính, tôi có câu hỏi rất mong được Quý Bộ giải đáp. Công ty tôi là doanh nghiệp EPE có mua phiếu ăn (sử dụng khi ăn Suất ăn công nghiệp) của Công ty cung cấp dịch vụ suất ăn công nghiệp tại Hà Nội. Địa điểm sử dụng phiếu ăn của công nhân công ty tôi là khuôn viên của 1 Công ty EPE khác. Công ty suất ăn căn cứ vào việc bán phiếu ăn này mà áp dụng thuế suất 10% cho Công ty chúng tôi. Theo tôi hiểu thì Công ty suất ăn đã hiểu sai bản chất của thuế suất này dẫn đến việc áp dụng sai mức thuế suất. Mức đúng theo tôi hiểu là 0% trong trường hợp của bên tôi (Căn cứ theo Điều 9, mục 3, thông tư 219/2014/TT-BTC). Vì mặc dù là mua phiếu ăn, nhưng việc cung cấp dịch vụ kể trên vẫn là cung cấp suất ăn công nghiệp và trong khu phi thuế quan, được tiêu dùng cho công nhân viên trong quá trình làm việc tại Công ty. Và địa điểm đặt bếp ăn vẫn là 1 công ty thuộc khu phi thuế quan vì vậy việc mua phiếu ăn kể trên có thể hiểu là việc cung cấp dịch vụ suất ăn công nghiệp trong khu phi thuế quan có thể chấp nhận được Do số tiền ăn mỗi tháng là rất lớn, số VAT phát sinh rất nhiều, gây thiệt hại lớn cho Công ty tôi nếu áp dụng thuế suất như vậy, nên tôi rất hy vọng được Quý Bộ phúc đáp trong thời gian sớm nhất để làm căn cứ cho 2 bên chúng tôi dàn xếp công nợ chính xác nhất Tôi xin chân thành cảm ơn Quý Bộ
– Căn cứ Khoản 9 Điều 1 Nghị định số 164/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính Phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Chính Phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế: “2. Khu chế xuất hoặc doanh nghiệp chế xuất được ngăn cách với lãnh thổ bên ngoài bằng hệ thống tường rào, có cổng và cửa ra, vào, bảo đảm điều kiện cho sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát của cơ quan hải quan và các cơ quan chức năng có liên quan.” – Căn cứ Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế GTGT quy định: + Tại Khoản 20 Điều 4 quy định: “Khu phi thuế quan bao gồm: khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, khu bảo thuế, kho ngoại quan, khu kinh tế thương mại đặc biệt, khu thương mại – công nghiệp và các khu vực kinh tế khác được thành lập và được hưởng các ưu đãi về thuế như khu phi thuế quan theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá giữa các khu này với bên ngoài là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu.” + Tại Khoản 1 Điều 9 quy định: “1. Thuế suất 0%: áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu; hoạt động xây dựng, lắp đặt công trình ở nước ngoài và ở trong khu phi thuế quan; vận tải quốc tế; hàng hoá, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế GTGT khi xuất khẩu, trừ các trường hợp không áp dụng mức thuế suất 0% hướng dẫn tại khoản 3 Điều này. Hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu là hàng hoá, dịch vụ được bán, cung ứng cho tổ chức, cá nhân ở nước ngoài và tiêu dùng ở ngoài Việt Nam; bán, cung ứng cho tổ chức, cá nhân trong khu phi thuế quan; hàng hoá, dịch vụ cung cấp cho khách hàng nước ngoài theo quy định của pháp luật. … b) Dịch vụ xuất khẩu bao gồm dịch vụ cung ứng trực tiếp cho tổ chức, cá nhân ở nước ngoài và tiêu dùng ở ngoài Việt Nam; cung ứng trực tiếp cho tổ chức, cá nhân ở trong khu[...]
Đơn vị tôi là đơn vị Thanh tra cấp tỉnh. Theo quy định tại Điểm a, Khoản 2, Điều 6 Thông tư liên tịch số 90/2012/TTLT-BTC-TTCP ngày 30/5/2012 của Bộ Tài chính và Thanh tra Chính phủ Quy định việc lập dự toán, quản lý sử dụng và quyết toán kinh phí được trích từ các khoản thu hồi và phát hiện qua công tác thanh tra đã thực nộp vào NSNN, "Khoản kinh phí được trích từ nguồn thu hồi phát hiện qua thanh tra được phân bổ vào kinh phí giao thực hiện chế độ tự chủ". Tuy nhiên, Thông tư số 327/2016/TT-BTC ngày 26/12/2016 của Bộ Tài chính thay thế Thông tư số 90/2012/TTLT-BTC-TTCP thì không quy định rõ khoản kinh phí được trích trên được phân bổ vào kinh phí giao thực hiện chế độ tự chủ hay không tự chủ. Vậy xin cho hỏi khoản kinh phí được trích từ nguồn thu hồi phát hiện qua thanh tra được phân bổ vào nguồn nào là đúng quy định?
1. Về kinh phí được trích của cơ quan thanh tra: Theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Thông tư số 327/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí được trích từ các khoản thu hồi phát hiện qua công tác thanh tra đã thực nộp vào ngân sách nhà nước thì việc sử dụng, quyết toán kinh phí được trích trên số đã thực nộp vào ngân sách nhà nước được thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn hiện hành. 2. Về cơ chế tự chủ đối với cơ quan hành chính: Ngày 17/10/2005 Chính phủ ban hành Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước; Nghị định số 117/2013/NĐ-CP ngày 07/10/2013 của Chính phủ ban hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước; trong đó có quy định chi tiết việc xác định kinh phí giao để thực hiện chế độ tự chủ và kinh phí giao không thực hiện chế độ tự chủ. Do vậy, cơ quan thanh tra phân bổ vào kinh phí giao thực hiện chế độ tự chủ hay không thực hiện chế độ tự chủ phải phù hợp với quy định tại Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 và Nghị định số 117/2013/NĐ-CP ngày 07/10/2013 của Chính phủ; nội dung chi tại Điều 5 Thông tư số 327/2016/TT-BTC ngày 26/12/2016 của Bộ Tài chính. Đề nghị Quý độc giả nghiên cứu Thông tư số 327/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính và các quy định hiện hành để thực hiện theo quy định.
Tôi đang công tác tại Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện Ba Tơ, tôi xin hỏi Bộ Tài chính nội dung sau: Tại điểm a Khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số 144/2014/TTLT-BTC-BVHTTDL, ngày 30 tháng 9 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí hoạt động phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, có quy định chi thù lao họp cho thành viên Ban Chỉ đạo phong trào các cấp. Vậy, mức chi thù lao họp cho thành viên Ban Chỉ đạo phong trào được xác định như thế nào? Xin cảm ơn Bộ Tài chính.
– Khoản 8 Điều 5 Thông tư liên tịch số 144/2014/TTLT-BTC-BVHTTDL quy định: “Đối với các nội dung chi khác có liên quan trực tiếp đến thực hiện phong trào nhưng chưa có quy định hướng dẫn định mức chi thực hiện theo chi phí thực tế phát sinh trên cơ sở hóa đơn, chứng từ hợp pháp, được cấp có thẩm quyền phê duyệt trong dự toán ngân sách hàng năm”. – Theo quy định tại Điểm h Khoản 9 Điều 30 Luật ngân sách nhà nước thì Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có quyền hạn: “Quyết định các chế độ chi ngân sách đối với một số nhiệm vụ chi có tính chất đặc thù ở địa phương ngoài các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách do Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn, phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách địa phương; Đồng thời, theo quy định tại Khoản 3 Điều 21 Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật ngân sách nhà nước quy định về quyền hạn, trách nhiệm của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh: “quyết định các chế độ chi ngân sách đối với một số nhiệm vụ chi có tính chất đặc thù ở địa phương ngoài các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn, phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách địa phương, ngân sách trung ương không hỗ trợ. Riêng những chế độ chi có tính chất tiền lương, tiền công, phụ cấp, trước khi quyết định phải có ý kiến của Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và các bộ quản lý ngành, lĩnh vực trực tiếp”. Vì vậy, đối với các nội dung chi chưa có quy định mức chi do Hội đồng nhân dân tỉnh xem xét, quyết định bảo đảm phù hợp với các quy định của Luật NSNN, Nghị định số[...]
Kính gửi: Bộ Tài chính. Đơn vị tôi là Ban Quản lý dự án ĐTXD cấp tỉnh, thực hiện lập dự toán, quyết toán tiền bán hồ sơ mời thầu theo Thông tư 190/2015/TT-BTC, hàng năm đều được kho bạc và cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định. Trong đó, các khoản chi quy định tại khoản 2, Điều 7, TT190 nêu trên gồm: a) Chi vật tư văn phòng (văn phòng phẩm; công cụ, dụng cụ văn phòng dùng riêng cho từng lễ mở thầu (nếu có)); b) Chi hội nghị (thuê hội trường trong trường hợp cơ quan, đơn vị không có địa điểm hoặc có nhưng không đáp ứng được số lượng đại biểu tham dự; thuê máy chiếu, trang thiết bị trực tiếp phục vụ hội nghị; nước uống trong cuộc họp; các khoản chi khác như: tiền làm thêm giờ, trang trí hội trường v.v…) c) Chi thông tin, tuyên truyền, liên lạc (cước phí điện thoại, cước phí bưu chính phục vụ việc gửi biên bản mở thầu cho các nhà thầu tham dự thầu (nếu có)); d) Chi phí khác liên quan trực tiếp đến công tác tổ chức mở thầu.
Khi cơ quan Thanh tra làm việc thì loại 2 khoản chi là tiền đăng báo mở thầu và bồi dưỡng mở thầu. Vậy, cơ quan Thanh tra làm vậy có đúng theo Thông tư 190/2015/TT-BTC nêu trên không?
1. Về chi phí đăng báo mở thầu: – Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Thông tư số 190/2015/TT-BTC ngày 17/11/2015 của Bộ Tài chính quy định về quản lý, sử dụng chi phí trong quá trình lựa chọn nhà thầu các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ thì: “2. Đối với chi phí đăng tải thông tin về đấu thầu, chi phí tham gia hệ thống mạng đấu thầu quốc gia và việc quản lý, sử dụng các khoản thu này trong quá trình lựa chọn nhà thầu không thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư này”. Do vậy, chi phí đăng tải thông tin về đấu thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng (trong đó có đăng báo) không thuộc đối tượng sử dụng tiền bán hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu để thanh toán. 2. Đối với chi phí bồi dưỡng mở thầu (chi bồi dưỡng cho cán bộ làm công tác xét thầu tham dự lễ mở thầu): Theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Thông tư số 190/2015/TT-BTC ngày 17/11/2015 của Bộ Tài chính quy định về quản lý, sử dụng chi phí trong quá trình lựa chọn nhà thầu các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ thì: “Khoản thu từ bán hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định được chi cho các nội dung phục vụ tổ chức mở thầu; bao gồm: a) Chi vật tư văn phòng (văn phòng phẩm; công cụ, dụng cụ văn phòng dùng riêng cho từng lễ mở thầu (nếu có)); b) Chi hội nghị (thuê hội trường trong trường hợp cơ quan, đơn vị không có địa điểm hoặc có nhưng không đáp ứng được số lượng đại biểu tham dự; thuê máy chiếu, trang thiết bị trực tiếp phục vụ hội nghị; nước uống trong cuộc họp; các khoản chi khác như: tiền làm thêm giờ, trang trí hội trường v.v…) c) Chi thông tin, tuyên truyền, liên lạc (cước phí điện thoại, cước phí bưu chính phục vụ việc gửi biên bản mở thầu cho các nhà thầu tham dự thầu (nếu có)); d) Chi phí khác liên quan trực tiếp đến công tác tổ chức mở thầu.”[...]
Xin hỏi, trụ sở của đơn vị sự nghiệp là tài sản Nhà nước, khi đã được bồi thường, hỗ trợ và chi phí phục vụ giải tỏa dự án đầu tư xây dựng công trình công cộng do công ty tư nhân làm chủ đầu tư có phải thực hiện thủ tục thanh lý tài sản Nhà nước theo quy định của Luật Tài sản Nhà nước (sự việc xảy ra từ năm 2015) và các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật không (Nghị định 52/2009/NĐ-CP…). Trong trường hợp phải tiến hành thanh lý thì đơn vị nào phải thực hiện thủ tục này?
Theo quy định tại Điều 34 Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, việc quản lý, sử dụng tài sản nhà nước tại đơn vị sự nghiệp công lập chưa tự chủ tài chính được thực hiện theo quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước tại cơ quan nhà nước. Theo quy định tại khoản 1 Điều 48 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP ngày 03/6/2009 của Chính phủ, việc thanh lý tài sản là trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp tại đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính được thực hiện theo quy định tại Mục 7 Chương II Nghị định số 52/2009/NĐ-CP (theo thanh lý tài sản tại cơ quan nhà nước). Theo quy định tại khoản 3 Điều 25 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP ngày 03/6/2009 của Chính phủ, việc thanh lý tài sản nhà nước được thực hiện trong trường hợp: “Trụ sở làm việc hoặc tài sản khác gắn liền với đất phải phá dỡ theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án đầu tư, giải phóng mặt bằng theo quy hoạch và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật”. Tại Điều 26 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP quy định thẩm quyền quyết định thanh lý tài sản nhà nước như sau: “1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan trung ương quyết định hoặc phân cấp thẩm quyền quyết định thanh lý tài sản nhà nước thuộc phạm vi quản lý. 2. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phân cấp thẩm quyền quyết định thanh lý tài sản nhà nước của các cơ quan nhà nước thuộc phạm vi quản lý”. Căn cứ các quy định nêu trên, trường hợp trụ sở của đơn vị sự nghiệp công lập đã được bồi thường, hỗ trợ và chi phí phục vụ giải phóng mặt bằng thực hiện dự án đầu tư theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; đơn vị sự nghiệp công lập có trách nhiệm báo cáo cấp có thẩm quyền theo quy định tại Điều 26 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP quyết định việc thanh lý tài sản trên đất; trên cơ sở đó, đơn vị sự nghiệp có tài sản tổ chức thực hiện việc thanh lý theo quy định.
Tôi nghỉ hưu tháng 2/2018, đóng BHXH hơn 30 năm. Tôi được trợ cấp một lần tính từ năm đóng BHXH thứ 31. Năm 2018, nữ nghỉ hưu khi đủ 55 tuổi và có 30 năm đóng BHXH, nhưng năm 2019 chỉ yêu cầu có 25 năm đóng BHXH. Vậy, tôi có được truy lĩnh tiền trợ cấp 1 lần của 5 năm chênh lệch không?
BHXH Việt Nam trả lời vấn đề này như sau: Theo quy định tại Nghị định số 153/2018/NĐ-CP ngày 7/11/2018 của Chính phủ quy định chính sách điều chỉnh lương hưu đối với lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu trong giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2021 có thời gian đóng BHXH từ đủ 20 năm đến 29 năm 6 tháng có quy định nội dung: Lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu từ ngày 1/1/2018 đến ngày 31/12/2021 có thời gian đóng BHXH từ đủ 20 năm đến 29 năm 6 tháng tùy thuộc vào thời gian đã đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu, mức lương hưu được điều chỉnh bằng mức lương hưu tính theo quy định tại Khoản 2 Điều 56 hoặc Khoản 2 Điều 74 Luật BHXH năm 2014 cộng với mức điều chỉnh theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định này. Như vậy, Nghị định số 153/2018/NĐ-CP chỉ quy định điều chỉnh lại mức lương hưu đối với lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu từ ngày 1/1/2018 đến ngày 31/12/2021 có thời gian đóng BHXH từ đủ 20 năm đến 29 năm 6 tháng bị tác động bất lợi hơn so với lao động nam do thay đổi cách tính lương hưu theo quy định của Luật BHXH năm 2014. Về trợ cấp một lần khi nghỉ hưu đối với lao động nữ hưởng lương hưu từ năm 2018 trở đi vẫn thực hiện theo quy định tại Điều 58 Luật BHXH năm 2014. Theo đó, lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 cũng như năm 2019 phải có trên 30 năm đóng BHXH mới được hưởng trợ cấp một lần khi nghỉ hưu. Do đó, việc tính hưởng trợ cấp một lần khi nghỉ hưu của bà tính từ năm thứ 31 trở đi là đúng quy định của chính sách.
