Căn cứ Thông tư số 72/2017/TT-BTC ngày 17/7/2017 của Bộ Tài chính quy định về quản lý, sử dụng các khoản thu từ hoạt động quản lý dự án của các chủ đầu tư, ban quản lý dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước;
Căn cứ Thông tư số 06/2019/TT-BTC ngày 28/1/2019 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 72/2017/TT-BTC;
Ban Quản lý dự án thành phố Lai Châu nghiên cứu 2 Thông tư trên thì:
– Theo quy định tại Khoản 2, Điều 20 Thông tư 72/2017/TT-BTC ngày 17/7/2017.
“2. Quỹ bổ sung thu nhập để chi trong các trường hợp:
a) Tạm ứng cho các khoản chi thường xuyên khi đầu năm chưa có kế hoạch vốn được giao, chưa có nguồn thu hoặc chưa duyệt dự toán. Khi có kế hoạch vốn được giao, dự toán được duyệt hoặc có nguồn thu thì thực hiện hoàn trả về Quỹ bổ sung thu nhập;
b) Chi bổ sung thu nhập cho người lao động trong năm và dự phòng chi bổ sung thu nhập cho người lao động năm sau trong trường hợp nguồn thu nhập bị giảm”.
– Theo quy định tại Điểm a, Khoản 12 Điều 1 Thông tư 06/2019/TT-BTC ngày 28/1/2019.
a) Sửa đổi, bổ sung Điểm b, Khoản 2 như sau:
“b) Chi bổ sung thu nhập (thu nhập tăng thêm) cho người lao động hưởng lương từ chi phí quản lý dự án (gồm: Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động hưởng tiền lương từ chi phí quản lý dự án) trong năm và dự phòng chi bổ sung thu nhập (thu nhập tăng thêm) cho người lao động hưởng lương từ chi phí quản lý dự án năm sau trong trường hợp nguồn thu nhập bị giảm”.
Năm 2018 Ban quản lý dự án thành phố chi thu nhập cho người lao động bằng quỹ bổ sung thu nhập được trích theo quy định tại Khoản 2, Điều 19 Thông tư 72/2017/TT-BTC ngày 17/7/2017 nhưng không hết, chuyển sang năm tiếp theo.
Đến năm 2019 nguồn thu của Ban bị giảm do vậy Ban Quản lý dự án thành phố Lai Châu đã sử dụng số tiền trong quỹ bổ sung thu nhập còn kết dư của năm trước để chi thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động hưởng tiền lương từ chi phí quản lý dự án theo quy định tại Điểm a, Khoản 12, Điều 1 Thông tư 06/2019/TT-BTC ngày 28/1/2019.
Vậy Ban quản lý dự án thành phố Lai Châu xin hỏi, nội dung chi thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động như trên có trái với quy định không?
– Thông tư số 72/2017/TT-BTC ngày 17/7/2017 của Bộ Tài chính quy định về quản lý, sử dụng đối với các khoản thu từ hoạt động quản lý dự án của các chủ đầu tư, ban quản lý dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước (Thông tư 72/2017/TT-BTC) quy định: + Tại Khoản 2 Điều 16: 2. Căn cứ vào nhiệm vụ được giao và khả năng nguồn tài chính, đối với các khoản chi thường xuyên quy định tại khoản 1 Điều 17 Thông tư này, Giám đốc BQLDA nhóm II được quyết định một số mức chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý cụ thể như sau: a) Đối với các nội dung chi đã có định mức chi theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: căn cứ vào khả năng tài chính, Ban QLDA được quyết định mức chi cao hơn hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị. b) Đối với các nội dung chi chưa có định mức chi theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: căn cứ tình hình thực tế và nhu cầu chi của đơn vị, đơn vị xây dựng mức chi cho phù hợp và quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. + Tại Khoản 2 Điều 18: 2. Thu nhập tăng thêm: Nhà nước khuyến khích các BQLDA tăng thu, tiết kiệm chi, thực hiện tinh giản biên chế, tăng thêm thu nhập cho người lao động trên cơ sở hoàn thành nhiệm vụ được giao, sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với ngân sách nhà nước; tùy theo kết quả hoạt động tài chính trong năm, BQLDA được quyết định tổng mức chi trả thu nhập tăng thêm trong năm cho người lao động không quá 3 lần quỹ tiền lương ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp lương đối với cán bộ, công chức, viên chức do Nhà nước quy định. Việc chi trả thu nhập cho người lao động trong đơn vị được thực hiện theo nguyên tắc: người nào có hiệu suất công tác cao, đóng góp nhiều cho việc tăng thu, tiết kiệm chi được[...]
Tôi ký hợp đồng lao động với công ty sản xuất, phân phối dược phẩm. Trong hợp đồng có điều khoản "không cho phép người lao động ký kết hợp đồng với công ty có cùng ngành nghề hoặc có xung đột lợi ích với công ty". Vậy, quy định trên có đúng không? Trường hợp tôi đã ký hợp đồng lao động thì có xem là đã chấp nhận thỏa thuận với công ty và công ty được phép yêu cầu tuân thủ thỏa thuận hay không?
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trả lời vấn đề này như sau: Tại Khoản 2 Điều 17 Bộ luật Lao động 2012 quy định nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động là tự do giao kết hợp đồng lao động nhưng không được trái pháp luật, thỏa ước lao động tập thể và đạo đức xã hội. Điều 21 Bộ luật Lao động 2012 quy định người lao động có thể giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động, nhưng phải bảo đảm thực hiện đầy đủ các nội dung đã giao kết. Tại Khoản 11 Điều 4 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/1/2015 của Chính phủ quy định các nội dung hợp đồng lao động có các nội dung khác liên quan đến thực hiện nội dung mà hai bên thỏa thuận. Như vậy, nếu người sử dụng lao động và người lao động thỏa thuận điều khoản nêu trên nhằm bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ thì hợp đồng lao động đó không vi phạm pháp luật. Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động. Do đó, khi đã ký hợp đồng lao động và hợp đồng lao động đó có hiệu lực thì các bên có nghĩa vụ tuân thủ đầy đủ nội dung đã giao kết.
K/g Bộ Tài chính! Hiện tôi đang công tác tại Sở Tài chính. Qua thời gian thực hiện Thông tư số 10/TT-BTC ngày 20/02/2020 của BTC, tôi xin hỏi Bộ vấn đề sau: Điều 20. Chi phí kiểm toán độc lập và chi phí thẩm tra, phê duyệt quyết toán "Chi phí kiểm toán độc lập và chi phí thẩm tra, phê duyệt quyết toán báo cáo quyết toán dự án hoàn thành là chi phí tối đa được xác định trên cơ sở tổng mức đầu tư được duyệt hoặc tổng mức đầu tư điều chỉnh của dự án sau khi loại trừ chi phí dự phòng (sau đây gọi chung là Tổng mức đầu tư của dự án sau loại trừ)…" Tuy nhiên, đối với một số dự án trong đó giá trị xây lắp thực hiện hợp đồng theo hình thức "hợp đồng trọn gói": Trong giá trị quyết toán chi phí xây lắp bao gồm cả chi phí HM chung và chi phí dự phòng. Như vậy, giá trị dự phòng trong tổng mức đầu tư đối với trường hợp này đã được sử dụng. Vậy khi tính chi phí thẩm tra quyết toán có loại trừ giá trị dự phòng được duyệt không? Nếu trường hợp vẫn phải loại trừ thì giá trị chi phí thẩm tra quyết toán không tính đúng bản chất của các chi phí đã đầu tư vào công trình. Kính gửi Bộ Tài chính trả lời thắc mắc trên, xin chân thành cảm ơn!
Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 20 Thông tư số 10/2020/TT-BTC ngày 20/02/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc Quy định về quyết toán dự án hoàn thành sử dụng nguồn vốn nhà nước (Thông tư số 10/2020/TT-BTC): “Điều 20. Chi phí kiểm toán độc lập và chi phí thẩm tra, phê duyệt quyết toán: 1. Xác định chi phí kiểm toán độc lập và chi phí thẩm tra, phê duyệt quyết toán: d)…. Tổng chi phí thẩm tra, phê duyệt quyết toán của dự án, dự án thành phần, tiểu dự án, công trình, hạng mục công trình không được vượt chi phí thẩm tra, phê duyệt quyết toán được duyệt hoặc điều chỉnh của toàn bộ dự án hoặc dự toán (nếu có)”. Cách xác định chi phí thẩm tra, phê duyệt quyết toán của dự án, dự án thành phần, tiểu dự án, công trình, hạng mục công trình độc lập hoàn thành đã được quy định cụ thể tại điểm a, điểm b, điểm c khoản 1 Điều 20 Thông tư số 10/2020/TT-BTC. Tại điểm c Khoản 2 Điều 20 Thông tư số 10/2020/TT-BTC, quy định: “2. Quản lý, sử dụng chi phí thẩm tra, phê duyệt quyết toán: a) Căn cứ chi phí thẩm tra, phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành được duyệt hoặc điều chỉnh tại dự án hoặc dự toán (nếu có), cơ quan chủ trì thẩm tra quyết toán có văn bản đề nghị chủ đầu tư thanh toán chi phí thẩm tra, phê duyệt quyết toán tối đa theo tỷ lệ quy định tại Khoản 1 Điều này sau khi nhận được hồ sơ trình duyệt quyết toán do chủ đầu tư gửi tới”. Do vậy, liên quan đến việc xác định chi phí thẩm tra, phê duyệt quyết toán của dự án đề nghị độc giả căn cứ quy định nêu trên để thực hiện.
Xem xét những sáng kiến mới về hợp tác tài chính trong ASEAN+3.
Ngày 5/8/2020, tại Trung tâm Hội nghị quốc tế Lê Hồng Phong (Hà Nội) đã diễn ra Hội nghị trực tuyến Thứ trưởng Tài chính và Phó Thống đốc Ngân hàng Trung ương ASEAN+3 (gọi tắt là AFCDM+3).
Th8
EVFTA là cơ hội cho các doanh nghiệp châu Âu vào Việt Nam thời Covid-19.
Ngày 1/8 vừa qua đã đánh mốc Hiệp định EVFTA có hiệu lực, xuất khẩu từ EU sang Việt Nam sẽ chính thức được hưởng những ưu đãi về thuế quan theo quy định. Hiệp định cũng quy định sẽ loại bỏ thuế quan đối với 99% hàng hóa giao dịch giữa hai bên.
Th8
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: “Đòn bẩy” tăng trưởng giữa dịch Covid-19.
Theo TS. Burkhard Schrage đến từ Đại học RMIT, quyết định đẩy mạnh thoái vốn tại các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong nửa cuối năm 2020 là thông tin được các nhà đầu tư đón chào.
Th8
