Hiện tại, vi phạm về thuế chủ yếu của các tổ chức, cá nhân kinh doanh thương mại điện tử (TMĐT) là không đăng ký kinh doanh, kê khai sai, giấu doanh thu, trốn thuế, khiến cơ quan thuế khó theo dõi, quản lý, xác định được đối tượng chịu thuế và số thuế phải nộp. Vì vậy, vấn đề đặt ra là, phải tăng cường thông tin, tuyên truyền, vận động để các tổ chức, cá nhân tự giác đăng ký, kê khai thuế. Đi liền với đó, cần tăng cường thanh tra, kiểm tra, truy vết, rà soát đưa các cá nhân vào diện quản lý thuế; có chế tài đủ mạnh để xử lý vi phạm khi phát hiện các hành vi gian lận, trốn thuế trong lĩnh vực TMĐT.
Thực hiện tốt chức năng quản lý thuế, thu đúng, đủ các nguồn phát sinh thuế từ hoạt động kinh doanh,
giao dịch trên các nền tảng công nghệ số và thương mại điện tử sẽ góp phần chống thất thu và tăng thu NSNN.
Quy định đồng bộ chính sách quản lý thuế trong lĩnh vực TMĐT
Theo số liệu thống kê, quản lý của cơ quan thuế, chỉ trong 3 năm 2018-2020, các tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam ký hợp đồng quảng cáo với các tổ chức nước ngoài có đăng ký kê khai, nộp thuế thay với doanh số 3.082 tỷ đồng, trong đó năm 2018: 770.6 tỷ đồng; năm 2019: 1.167,9 tỷ đồng; năm 2020: 1.143,7 tỷ đồng. Đối với các cá nhân có hoạt động kinh doanh TMĐT trên các trang web, facebook, zalo, cung cấp dịch vụ xuyên biên giới…
Tại một số địa bàn lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng thì qua thanh tra, kiểm tra, tuyên truyền, vận động người kinh doanh đăng ký, kê khai, nộp thuế, cơ quan thuế cũng đã thu, truy thu, phạt số tiền thuế kê khai bổ sung, truy thu, chậm nộp, tiền phạt đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động giao dịch, kinh doanh TMĐT.
Theo Đề án “Quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT tại Việt Nam” đã được Bộ Tài chính phê duyệt, lộ trình triển khai các giải pháp quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh TMĐT thực hiện theo 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 (ngắn hạn) từ nay đến hết 2023, Bộ Tài chính sẽ tập trung các giải pháp tăng cường công tác quản lý thông qua một số giải pháp quan trọng như: công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế; triển khai thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề; hiện đại hóa công tác quản lý thuế; xây dựng cơ sở dữ liệu để quản lý rủi ro; phối hợp với các bộ, ngành, tổ chức, hiệp hội có liên quan để trao đổi kết nối thông tin; củng cố địa vị pháp lý, chức năng nhiệm vụ cho một số vụ, đơn vị để đáp ứng quản lý chuyên sâu đối với TMĐT; xúc tiến hợp tác quốc tế trong việc đàm phán hiệp định song phương, đa phương về quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT. Giai đoạn 2 (dài hạn) đến năm 2025, đề xuất sửa đổi các luật thuế và pháp luật chuyên ngành có liên quan đến quản lý TMĐT; xây dựng đề án bổ sung chức năng điều tra cho cơ quan thuế. |
Chỉ nhìn vào số thuế tăng lên qua công tác rà soát, kiểm tra, đôn đốc kê khai, nộp thuế đối với các hoạt động TMĐT thời gian gần đây cho thấy, thực tế các hoạt động giao dịch, kinh doanh TMĐT diễn ra rất sôi động, số lượng người tham gia kinh doanh tăng rất nhanh, doanh thu ước tính rất lớn, số thuế cơ quan thuế thu được cũng tăng đáng kể.
Đặc biệt, trong 2-3 năm trở lại đây, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn ra đã làm thay đổi nhanh chóng phương thức kinh doanh từ truyền thống sang hình thức TMĐT rất nhanh, số lượng lớn, thói quen tiêu dùng của người dân cũng thay đổi rất nhanh, rất nhiều giao dịch, hàng hóa, dịch vụ được thục hiện thông qua hình thức TMĐT. Hoạt động đó diễn ra không chỉ ở khu vực thành thị, các trung tâm, thành phố lớn mà đã lan tỏa ra khắp các vùng, miền, len lỏi vào tận ngõ ngách, vùng quê hay miền núi.
Theo số liệu trên hệ thống quản lý thuế, hiện nay có khoảng 14 tập đoàn, công ty công nghệ lớn trên thế giới và 8 trang điện tử hoạt động TMĐT xuyên biên giới có thu nhập tại Việt Nam đã thực hiện nghĩa vụ thuế. Số thuế thu được thông qua các tổ chức, cá nhân Việt Nam khấu trừ, nộp thay khoảng 1.000 tỷ đồng/năm.
Số thu thuế từ các tổ chức Việt Nam có ký hợp đồng quảng cáo trực tuyến với tổ chức nước ngoài không thành lập pháp nhân tại Việt Nam như: Google, Youtube, Facebook… từ năm 2018 đến hết tháng 9/2021 mà các đơn vị này đã khai, nộp thuế là khoảng gần 4.100 tỷ đồng. Năm 2020 số thu thuế từ hoạt động TMĐT xuyên biên giới đạt trên 1.143 tỷ đồng; riêng 9 tháng năm 2021 đạt trên 1.017 tỷ đồng, bằng gần 89% năm 2020.
Bên cạnh đó, các hoạt động quảng cáo trên các nền tảng công nghệ, lĩnh vực phần mềm, nền tảng công nghệ thông tin xuyên biên giới cũng rất đa dạng, nhiều hoạt động có doanh thu rất lớn… nhưng có thể nói phần thuế thu được từ các hoạt động TMĐT vẫn còn rất nhỏ.
Để khắc phục tình trạng trên, điều đầu tiên muốn thực hiện tốt chức năng quản lý thuế, thu đúng, đủ các nguồn phát sinh thuế từ hoạt động kinh doanh, giao dịch trên các nền tảng công nghệ số, TMĐT, đòi hỏi phải rà soát hệ thống cơ chế chính sách về thuế đối với lĩnh vực TMĐT, từ đó có các quy định đồng bộ, cụ thể, chi tiết hướng dẫn người nộp thuế dễ dàng thực hiện các khâu từ đăng ký thuế, kê khai và nộp thuế.
Đồng thời, cơ quan thuế cũng phải tăng cường nguồn lực cán bộ thuế đủ trình độ chuyên môn về tin học, ngoại ngữ, am hiểu chính sách pháp luật, nghiệp vụ thuế – tài chính – ngân hàng, công nghệ thông tin, để có thể truy vết, đấu tranh với các thủ đoạn trốn, lách thuế ngày càng tinh vi.
Đề xuất một số giải pháp tăng cường quản lý thuế đối với TMĐT
Để triển khai đồng bộ các giải pháp quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT, cần tập trung tiếp tục đẩy mạnh triển khai một số phương thức. Cụ thể:
Thứ nhất, cơ quan thuế phải xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu liên thông, tích hợp giữa hệ thống ngân hàng, các nhà cung cấp nền tảng số, để nắm bắt được đối tượng quản lý thuế, số giao dịch phát sinh, doanh số, số thuế phải nộp, nhất là đối với các giao dịch xuyên biên giới, giao dịch thương mại trên các nền tảng số, kinh doanh online, bán hàng hóa, dịch vụ qua mạng… Từ đó, làm cơ sở cho việc quản lý chặt chẽ, đôn đốc kê khai thuế, nộp thuế và xử lý các hành vi gian lận, trốn, lách thuế.
Ông Vũ Mạnh Cường, Cục trưởng Cục Thanh tra kiểm tra (Tổng cục Thuế) Để đẩy mạnh truy thu thuế của các đối tượng hoạt động trên nền tảng công nghệ, ngành Thuế sẽ tiếp tục củng cố hành lang pháp lý, kết hợp với các bộ, ban, ngành làm sạch dữ liệu để truy thu thuế. Bên cạnh đó, đẩy mạnh tuyên truyền, thanh tra kiểm tra các đối tượng nộp thuế. Ngành Thuế sẽ dùng các biện pháp nghiệp vụ lưu giữ cơ sở dữ liệu và áp dụng biện pháp nghiệp vụ để thực hiện thanh tra kiểm tra truy thu thuế. Đối với các đối tượng chây ì không nộp thuế, cơ quan thuế sẽ phối hợp với chính quyền địa phương để truy thu. Trong trường hợp cần thiết sẽ phối hợp với Cục An ninh mạng và Phòng, Chống tội phạm sử dụng Công nghệ cao (Bộ Công an) để xác minh, truy thu thuế của các đối tượng kinh doanh thương mại điện tử. |
Thứ hai, mặc dù đã có quy định về việc ủy quyền cho các nhà cung cấp, thanh toán trung gian, các ngân hàng thực hiện việc khấu trừ thuế, nộp thay nghĩa vụ thuế cho các tổ chức, cá nhân, nhưng trong quy định phải cần làm rõ trách nhiệm, hướng dẫn cụ thể cho các tổ chức thanh toán, trung gian thanh toán để làm sao họ nhận biết, tính đúng, đủ số thuế nộp thay cho các tổ chức, cá nhân có kinh doanh TMĐT, nhất là đối với thuế nhà thầu của các tổ chức cá nhân có phát sinh thu nhập tại Việt Nam nhưng không đăng ký thuế.
Thứ ba, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, triển khai rộng rãi các dịch vụ thuế điện tử như: khai thuế điện tử, nộp thuế điện tử, hóa đơn điện tử; phát triển cổng thanh toán quốc gia; thiết lập cơ chế quản lý, giám sát các giao dịch của TMĐT thông qua các tổ chức thanh toán cả trong nước và quốc tế. Khi đó, chỉ cần thông qua các đầu mối thanh toán, cơ quan thuế sẽ dễ dàng nắm bắt được chính xác danh tính, doanh thu của các tổ chức, cá nhân có hoạt động giao dịch TMĐT, để có căn cứ xác định ngưỡng chịu thuế, số thuế phải nộp và có căn cứ để đấu tranh với các hành vi gian lận, trốn tránh nghĩa vụ thuế.
Thứ tư, tập trung tuyên truyền, yêu cầu các tổ chức, cá nhân kinh doanh qua mạng, có hoạt động giao dịch TMĐT phát sinh doanh thu nộp thuế phải tự giác kê khai và nộp thuế theo quy định. Cơ quan thuế cần phối hợp với các tổ chức như ngân hàng, bưu điện, cơ quan chuyển phát nhanh để có biện pháp khấu trừ thuế đối với các giao dịch trực tiếp khi thanh toán tiền – hàng của các giao dịch.
Thứ năm, thường xuyên rà soát, thống kê các đối tượng có hoạt động giao dịch TMĐT không thường trú tại Việt Nam để nắm bắt, từ đó xây dựng chơ chế quản lý thuế phù hợp với thông lệ quốc tế, chống thất thu thuế với các giao dịch xuyên biên giới.
Thứ sáu, cơ quan thuế các cấp cần thường xuyên rà soát, phân tích, tổng hợp, thống kê, chỉ ra các hành vi trốn, tránh nghĩa vụ thuế của từng nhóm đối tượng, từ đó có biện pháp cảnh báo, phổ biến tới toàn bộ hệ thống cơ quan thuế các cấp để có biện pháp quản lý thuế phù hợp nhất, đảm bảo bao quát được số thuế phát sinh trong các giao dịch TMĐT.
Thứ bảy, biện pháp đặc biệt, rất quan trọng, đó là cơ quan thuế cần nghiên cứu, xây dựng, ban hành các chế tài xử lý vi phạm đủ mạnh, để làm sao người nộp thuế phải “sợ” không muốn trốn, lách thuế, không dám vi phạm trốn tránh nghĩa vụ thuế. Để đạt mục tiêu đó, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế, truy vết các giao dịch đối với các giao dịch TMĐT nói riêng, có như vậy mới đảm bảo quản lý hiệu quả, chặt chẽ các nguồn thuế phát sinh trong lĩnh vực TMĐT thời gian tới.
Trích nguồn
Đức Thủy – Thanh Thanh