Kính chào BTC, Công ty tôi có chuyên gia người nước ngoài được cử sang VN làm việc từ 30/7/2019. Tính đến 31/12/2019, cá nhân này ở VN dưới 183 ngày và tính trong 12 tháng liên tục (từ 30/7/2019-30/7/2020) cá nhân này ở VN trên 183 ngày. Do ảnh hưởng của dịch Covid 19, cá nhân này về nước từ tháng 3/2020 và mới quay lại Việt Nam vào tháng 11/2020. 12 tháng liên tục từ 30/7/19 đến 29/7/20, cá nhân này đã ở VN trên 183 ngày, do đó chúng tôi đã quyết toán 12 tháng liên tục theo quy định. Trong năm dương lịch thứ 2 (năm 2020) thì cá nhân này ở VN dưới 183 ngày. Căn cứ Điều 6, Thông tư 111/2013/TT-BTC: "Trường hợp trong năm dương lịch, cá nhân có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên thì kỳ tính thuế được tính theo năm dương lịch. Trường hợp trong năm dương lịch, cá nhân có mặt tại Việt Nam dưới 183 ngày nhưng tính trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam là từ 183 ngày trở lên thì kỳ tính thuế đầu tiên được xác định là 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam. Từ năm thứ hai, kỳ tính thuế căn cứ theo năm dương lịch. Ví dụ 3: Ông B là người nước ngoài lần đầu tiên đến Việt Nam từ ngày 20/4/2014. Trong năm 2014 tính đến ngày 31/12/2014, ông B có mặt tại Việt Nam tổng cộng 130 ngày. Trong năm 2015, tính đến 19/4/2015 ông B có mặt tại Việt Nam tổng cộng 65 ngày. Kỳ tính thuế đầu tiên của ông B được xác định từ ngày 20/4/2014 đến hết ngày 19/4/2015. Kỳ tính thuế thứ hai được xác định từ ngày 01/01/2015 đến hết ngày 31/12/2015…” Theo đó, kỳ tính thuế thứ 2 được xác định là từ 01/01/2020 đến 31/12/2020 và là cá nhân không cư trú trong năm 2020. Trong Q1/2020 & Q2/2020 chúng tôi đã tạm tính và nộp thuế TNCN cho cá nhân này theo diện cá nhân cư trú. Do dịch bệnh Covid 19 ảnh hưởng đến lịch trình làm việc và làm thay đổi tình trạng cư trú của cá nhân này trong năm 2020, vậy chúng tôi có được điều chỉnh lại tờ khai thuế TNCN Q1&Q2/20 theo diện cá nhân không cư trú hay không? Kính mong BTC giải đáp và hướng dẫn thực hiện.
– Căn cứ Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân và Nghị định số 65/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân: + Tại Điều 1 hướng dẫn về người nộp thuế: “1. Cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong các điều kiện sau đây: a) Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam, trong đó ngày đến và ngày đi được tính là một (01) ngày. Ngày đến và ngày đi được căn cứ vào chứng thực của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh trên hộ chiếu (hoặc giấy thông hành) của cá nhân khi đến và khi rời Việt Nam. Trường hợp nhập cảnh và xuất cảnh trong cùng một ngày thì được tính chung là một ngày cư trú. Cá nhân có mặt tại Việt Nam theo hướng dẫn tại điểm này là sự hiện diện của cá nhân đó trên lãnh thổ Việt Nam. b) Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam theo một trong hai trường hợp sau: b.1) Có nơi ở thường xuyên theo quy định của pháp luật về cư trú: …b.2) Có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhà ở, với thời hạn của các hợp đồng thuê từ 183 ngày trở lên trong năm tính thuế, cụ thể như sau: …2. Cá nhân không cư trú là người không đáp ứng điều kiện nêu tại khoản 1, Điều này. + Tại Điều 6 hướng dẫn về kỳ tính thuế: “Điều 6. Kỳ tính thuế 1. Đối với cá nhân cư trú a) Kỳ tính thuế theo năm: áp dụng đối với thu nhập từ kinh doanh và thu nhập từ tiền lương, tiền công. Trường hợp trong năm dương lịch, cá nhân có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên thì kỳ tính thuế được tính theo năm dương lịch. Trường hợp trong năm dương lịch, cá nhân[...]
Công ty tôi thực hiện hợp đồng tư vấn lập quy hoạch chi tiết xây dựng điểm dân cư nông thôn có quy mô 8 ha. Hồ sơ nhiệm vụ quy hoạch bao gồm dự toán chi phí lập quy hoạch xác định theo định mức đối với đồ án quy hoạch có quy mô ≤ 10 ha tại Bảng số 10 Thông tư số 20/2019/TT-BXD. Khi tôi nộp hồ sơ qua bộ phận 1 cửa thì cán bộ thụ lý trả hồ sơ và hướng dẫn công ty xác định lại chi phí lập đồ án quy hoạch theo cách nội suy giữa 2 quy mô: 0 ha và 10 ha. Tôi xin hỏi, việc cán bộ thụ lý hồ sơ hướng dẫn cho công ty tôi cách nội suy như vậy có đúng theo hướng dẫn áp dụng định mức chi phí lập đồ án quy hoạch theo Thông tư số 20/2019/TT-BXD ngày 31/12/2019 của Bộ Xây dựng hướng dẫn xác định, quản lý chi phí quy hoạch xây dựng và quy hoạch đô thị hay không?
Bộ Xây dựng trả lời vấn đề này như sau: Việc xác định và quản lý chi phí quy hoạch xây dựng và quy hoạch đô thị thực hiện theo Thông tư số 20/2019/TT-BXD ngày 31/12/2019 của Bộ Xây dựng. Định mức chi phí tư vấn lập quy hoạch chi tiết xây dựng điểm dân cư nông thôn thực hiện theo Bảng số 10 Mục 4.2 Phụ lục số 1 kèm theo Thông tư số 20/2019/TT-BXD. Trường hợp quy mô đồ án quy hoạch nhỏ hơn quy mô được quy định tại Thông tư số 20/2019/TT-BXD thì định mức chi phí lập quy hoạch được xác định theo quy định tại Khoản 3 Điều 4 Chương II Thông tư số 20/2019/TT-BXD.
Căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 5 Thông tư số 40/2017/TT-BTC ngày 28/4/2017 về thanh toán khoán tiền tự túc phương tiện khi đi công tác và quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị, tôi thanh toán công tác phí cho cán bộ công chức theo cách tính khoảng cách địa giới hành chính là số km từ cơ quan đến nơi công tác bao gồm cả lượt đi và lượt về. Tuy nhiên qua thẩm định quyết toán năm 2019, cơ quan tài chính cùng cấp không chấp thuận với lý do chỉ được tính khoảng cách địa giới hành chính một lượt đi, không tính lượt về. Tôi xin hỏi, cách tính khoảng cách địa giới hành chính như thế nào là đúng theo quy định?
Bộ Tài chính trả lời vấn đề này như sau: Chính phủ đã ban hành Nghị định số 04/2019/NĐ-CP ngày 22/4/2019 quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô và Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 24/2019/TT-BTC ngày 22/4/2019 hướng dẫn một số nội dung của Nghị định số 04/2019/NĐ-CP; trong đó: Theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 8 Nghị định số 04/2019/NĐ-CP, thì đối với đối tượng không có tiêu chuẩn được bố trí xe ô tô khi đi công tác nhưng trường hợp cần thiết do yêu cầu công tác, thủ trưởng cơ quan đơn vị quyết định bố trí xe ô tô phục vụ công tác chung hoặc khoán kinh phí sử dụng xe ô tô hoặc thuê dịch vụ xe ô tô khi đi công tác. Việc khoán kinh phí sử dụng xe ô tô, thuê dịch vụ xe ô tô thực hiện theo quy định tại Điều 22, Điều 23 Nghị định này; trong đó quy định hình thức và mức khoán kinh phí gồm: Khoán theo km thực tế và theo hình thức khoán gọn; đơn giá khoán phù hợp với đơn giá dịch vụ vận chuyển của phương tiện vận tải tương đương trên thị trường. Khoản 7 Điều 22 Nghị định số 04/2019/NĐ-CP quy định: “7. Căn cứ quy định tại Nghị định này và điều kiện thực tế của cơ quan tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp Nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan trung ương, Chủ tịch UBND cấp tỉnh (sau khi có ý kiến thống nhất của Ban thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy, Thường trực HĐND cấp tỉnh), Chủ tịch Hội đồng thành viên các Tập đoàn kinh tế quyết định hoặc phân cấp thẩm quyền quyết định: a) Việc áp dụng khoán kinh phí sử dụng xe ô tô của các chức danh quy định tại Khoản 1 và trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 8 Nghị định này. b) Hình thức và công đoạn thực hiện khoán kinh phí sử dụng xe ô tô cho các chức danh. c) Đơn giá khoán kinh phí sử dụng xe ô tô, mức khoán kinh phí sử dụng xe ô tô áp dụng cho từng chức danh hoặc từng nhóm chức danh phù hợp với từng thời kỳ”. Tại Điểm b Khoản 1 Điều 5 Thông tư số 40/2017/TT-BTC ngày 28/4/2017 của[...]
Tôi đóng BHXH và BHTN tại cơ quan Nhà nước từ năm 2010. Năm 2018, tôi chuyển đến làm việc ở một công ty, có nộp sổ bảo hiểm và tiếp tục đóng BHXH và BHTN. Qua
tra cứu online tôi thấy số năm đóng BHXH và BHTN của tôi chỉ có 1 năm 8 tháng. Vậy, có phải thời gian đóng BHXH và BHTN trước năm 2018 của tôi không được cộng dồn và làm thế nào để tôi biết rõ quá trình tham gia bảo hiểm của mình?
tra cứu online tôi thấy số năm đóng BHXH và BHTN của tôi chỉ có 1 năm 8 tháng. Vậy, có phải thời gian đóng BHXH và BHTN trước năm 2018 của tôi không được cộng dồn và làm thế nào để tôi biết rõ quá trình tham gia bảo hiểm của mình?
BHXH Việt Nam trả lời vấn đề này như sau: Căn cứ quy định tại Khoản 5 Điều 3 Luật BHXH năm 2014 thì thời gian đóng BHXH là thời gian được tính từ khi bắt đầu đóng BHXH cho đến khi dừng đóng. Trường hợp người lao động đóng BHXH không liên tục thì thời gian đóng BHXH là tổng thời gian đã đóng BHXH. Đối chiếu với quy định nêu trên, năm 2018 ông chuyển đến làm việc và đóng BHXH bắt buộc tại 1 công ty khác thì được cộng nối với thời gian đóng BHXH từ năm 2010 đến năm 2018 tại đơn vị cũ làm căn cứ để tính hưởng các chế độ BHXH sau này theo đúng quy định của pháp luật. Trường hợp của ông tra cứu không có thông tin đã đóng BHXH từ năm 2014 đến năm 2018 thì ông liên hệ với cơ quan BHXH nơi công ty mới đang đóng BHXH đối với ông để được hướng dẫn, giải quyết.
Đơn vị tôi đang xây dựng gói thầu thuê dịch vụ kiểm tra, đánh giá an toàn thông tin mạng theo Luật An toàn thông tin mạng và Nghị định số 85/2016/NĐ-CP. Cho tôi hỏi, gói thầu này thuộc dịch vụ tư vấn hay phi tư vấn?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau: Theo quy định tại Khoản 8 Điều 4 Luật Đấu thầu, dịch vụ tư vấn là một hoặc một số hoạt động bao gồm: Lập, đánh giá báo cáo quy hoạch, tổng sơ đồ phát triển, kiến trúc; khảo sát, lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi, báo cáo đánh giá tác động môi trường; khảo sát, lập thiết kế, dự toán; lập hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu; đánh giá hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất; thẩm tra, thẩm định; giám sát; quản lý dự án; thu xếp tài chính; kiểm toán, đào tạo, chuyển giao công nghệ; các dịch vụ tư vấn khác. Theo quy định tại Khoản 9 Điều 4 Luật Đấu thầu, dịch vụ phi tư vấn là một hoặc một số hoạt động bao gồm: Logistics, bảo hiểm, quảng cáo, lắp đặt không thuộc quy định tại Khoản 45 Điều này, nghiệm thu chạy thử, tổ chức đào tạo, bảo trì, bảo dưỡng, vẽ bản đồ và hoạt động khác không phải là dịch vụ tư vấn quy định tại Khoản 8 Điều này. Theo đó, việc xác định loại gói thầu thực hiện theo quy định nêu trên. Nếu gói thầu của đơn vị đòi hỏi kiến thức, trình độ chuyên môn, phương pháp luận của các chuyên gia có năng lực, kinh nghiệm để thực hiện gói thầu thì coi là gói thầu dịch vụ tư vấn. Trường hợp gói thầu chỉ bao gồm việc đo đạc, ghi nhận thuần túy các chỉ số có liên quan, không đòi hỏi trình độ, phương pháp luận của chuyên gia thì có thể coi là dịch vụ phi tư vấn.
Công ty mẹ của công ty tôi tại nước ngoài có mua bảo hiểm trách nhiệm cho giám đốc công ty tôi tại Việt Nam. Công ty mẹ thanh toán tiền bảo hiểm cho bên bán bảo hiểm tại nước ngoài, sau đó công ty tôi sẽ thanh toán lại cho công ty mẹ phần chi phí này.
Theo tôi hiểu thì công ty mẹ chỉ thực hiện việc thu hộ phí bảo hiểm, không thực hiện dịch vụ cung cấp bảo hiểm, do vậy không thuộc đối tượng chịu thuế nhà thầu tại Việt Nam. Cách hiểu như vậy có đúng không?
Cục Thuế TP. Hải Phòng trả lời vấn đề này như sau: Căn cứ Thông tư số 103/2014/TT-BTC ngày 6/8/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam: Tại Khoản 1 Điều 1 quy định về đối tượng áp dụng thuế nhà thầu: “1. Tổ chức nước ngoài kinh doanh có cơ sở thường trú tại Việt Nam hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam; cá nhân nước ngoài kinh doanh là đối tượng cư trú tại Việt Nam hoặc không là đối tượng cư trú tại Việt Nam (sau đây gọi chung là nhà thầu nước ngoài, nhà thầu phụ nước ngoài) kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng, thỏa thuận, hoặc cam kết giữa nhà thầu nước ngoài với tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc giữa nhà thầu nước ngoài với nhà thầu phụ nước ngoài để thực hiện một phần công việc của hợp đồng nhà thầu”. Điều 6 của Thông tư quy định về đối tượng chịu thuế GTGT; Khoản 2 Điều 12 quy định tỷ lệ (%) để tính thuế GTGT trên doanh thu tính thuế và Khoản 2 Điều 13 quy định tỷ lệ (%) để tính thuế TNDN trên doanh thu tính thuế. Từ các căn cứ nêu trên, trường hợp công ty mẹ tại nước ngoài mua bảo hiểm trách nhiệm cho giám đốc của công ty con tại Việt Nam; công ty mẹ thanh toán tiền bảo hiểm cho bên bán bảo hiểm tại nước ngoài. Sau đó thu lại tiền bảo hiểm của công ty con thì công ty mẹ thuộc đối tượng nộp thuế nhà thầu nước ngoài tại Việt Nam theo quy định tại Thông tư số 103/2014/TT-BTC ngày 6/8/2014 của Bộ Tài chính. Công ty con tại Việt Nam có trách nhiệm khấu trừ tiền thuế nhà thầu nước ngoài trước khi thanh toán cho công ty mẹ và công ty con thực hiện kê khai, nộp thuế nhà thầu nước ngoài thay cho công ty mẹ theo quy định của Luật Quản lý thuế.