TIN NỔI BẬT
Từ 2026, nâng mức giảm trừ gia cảnh thuế thu nhập cá nhân lên 15,5 triệu đồng/thángNgân hàng “rót” vốn cho nông nghiệp: Từ hỗ trợ sản xuất đến xuất khẩuTOP 10 cổ phiếu được quỹ chủ động nắm giữ nhiều nhất tháng 9/2025Tiếp tục giảm thuế bảo vệ môi trường với xăng, dầu, mỡ nhờn trong năm 2026Diễn đàn lớn nhất ngành Kế toán – kiểm toán ASEAN sắp diễn ra tại Hà NộiNhà phố, biệt thự: Nguồn cung mới giảm 80%, giá bán giảm hơn 20%Giá bán căn hộ tại Hà Nội đã vượt ngưỡng 90 triệu đồng/m2Kiểm soát giá bất động sản: Minh bạch dữ liệu, đánh trúng đòn bẩy, mở đúng nguồn cungSửa Luật quản lý nợ công: Đơn giản hoá thủ tục, mở rộng đối tượng tiếp cận vốn vayChính sách thuế mới hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy chuyển đổi sốSửa đổi, bổ sung Luật Chứng khoán: Nâng cao tính minh bạch và hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoánNgăn chặn rửa tiền từ ngân hàng đến tài sản mã hóaHoàn thiện khung pháp lý xử phạt vi phạm lĩnh vực bảo hiểmBẢN TIN PHÁP LUẬT THÁNG 10/2025CPA VIETNAM Chúc Mừng Ngày Doanh nhân Việt Nam 13/10Nhiều điểm mới trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH Việt NamCông tác kế toán cấp xã: Giải đáp về vị trí việc làm trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấpCơ hội và thách thức khi doanh nghiệp Việt bước vào sân chơi IFRSHành trình đưa Luật Chứng khoán mới từ nghị trường đến thực tiễnBảo hiểm xã hội Việt Nam: Thích ứng với mô hình chính quyền hai cấp để hoạt động hiệu quả hơn

Kính gửi Bộ Tài chính! Công ty đóng tàu Nam Triệu hoạt động chính trong lĩnh vực đóng mới và sửa chữa tàu biển, tàu sông và phương tiện thủy. Vừa qua, Công ty chúng tôi có thực hiện đóng mới sản phẩm cho đối tác và có quy định về khoản thưởng phạt tiến độ trong hợp đồng. Tuy nhiên Công ty chúng tôi và phía đối tác chưa thống nhất được việc có phải xuất hóa đơn giá trị gia tăng đối với các khoản thu tiền thưởng/ khoản thu tiền phạt khách hàng (bao gồm cả khoản thưởng/phạt được quy định trong hợp đồng và khoản thưởng/phạt ngoài hợp đồng) hay không. Nếu phải xuất hóa đơn đối với khoản thưởng/phạt này thì đơn vị kê khai hóa đơn này như thế nào? Công ty đóng tàu Nam Triệu rất mong nhận được sự quan tâm, sớm xem xét giải đáp các vướng mắc trên từ Bộ Tài chính để chúng tôi có cơ sở thực hiện theo đúng quy định của Pháp luật.

Căn cứ khoản 1 Điều 5 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính quy định các trường hợp không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT như sau: “1. Tổ chức, cá nhân nhận các khoản thu về bồi thường bằng tiền (bao gồm cả tiền bồi thường về đất và tài sản trên đất khi bị thu hồi đất theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền), tiền thưởng, tiền hỗ trợ, tiền chuyển nhượng quyền phát thải và các khoản thu tài chính khác. Cơ sở kinh doanh khi nhận khoản tiền thu về bồi thường, tiền thưởng, tiền hỗ trợ nhận được, tiền chuyển nhượng quyền phát thải và các khoản thu tài chính khác thì lập chứng từ thu theo quy định. Đối với cơ sở kinh doanh chi tiền, căn cứ mục đích chi để lập chứng từ chi tiền. …Trường hợp cơ sở kinh doanh nhận tiền của tổ chức, cá nhân để thực hiện dịch vụ cho tổ chức, cá nhân như sửa chữa, bảo hành, khuyến mại, quảng cáo thì phải kê khai, nộp thuế theo quy định. …”; Căn cứ Khoản 13 Điều 7 Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014 của Bộ Tài chính quy định các khoản thu nhập khác: “13. Trường hợp doanh nghiệp có khoản thu về tiền phạt, tiền bồi thường do bên đối tác vi phạm hợp đồng hoặc các khoản thưởng do thực hiện tốt cam kết theo hợp đồng phát sinh cao hơn khoản chi tiền phạt, tiền bồi thường do vi phạm hợp đồng (các khoản phạt này không thuộc các khoản tiền phạt về vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính), sau khi bù trừ, phần chênh lệch còn lại tính vào thu nhập khác. Trường hợp doanh nghiệp có khoản thu về tiền phạt, tiền bồi thường do bên đối tác vi phạm hợp đồng hoặc các khoản thưởng do thực hiện tốt cam kết theo hợp đồng phát sinh thấp hơn khoản chi tiền phạt, tiền bồi thường do vi phạm hợp đồng (các khoản phạt này không thuộc các khoản tiền phạt về vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính), sau khi bù trừ, phần chênh lệch còn lại tính giảm trừ vào[...]

Tôi xin thắc mắc về Thông tư 10/2020/TT-BTC ngày 20 tháng 02 năm 2020. Theo biểu mẫu số 04/QDTA giá trị đề nghị quyết toán liệt kê tách chi phí xây dựng, chi phí hạng mục chung, chi phí dự phòng. Tuy nhiên, Với dự án có quy mô nhỏ, giá gói thầu bao gồm chi phí xây dựng, chi phí hạng mục chung, chi phí dự phòng, trong đó chi phí dự phòng được Nhà thầu phân bổ vào giá thành các công việc nên không có cơ sở tách ra liệt kê vào biểu 04/QDTA. Vậy xin Bộ tài chính hướng dẫn để tháo gỡ thắc mắc trên.

Tại Điều 3 Thông tư số 10/2020/TT-BTC ngày 20/02/2020 của Bộ Tài chính quy định về quyết toán dự án hoàn thành sử dụng nguồn vốn nhà nước quy định như sau: “Chi phí đầu tư được quyết toán là toàn bộ chi phí hợp pháp thực hiện trong quá trình đầu tư để đưa dự án vào khai thác, sử dụng. Chi phí hợp pháp là toàn bộ các khoản chi phí thực hiện trong phạm vi dự án, dự toán được duyệt và hợp đồng đã ký kết phù hợp với quy định của pháp luật (đối với những công việc thực hiện theo hợp đồng) kể cả phần điều chỉnh, bổ sung được duyệt theo quy định và đúng thẩm quyền. Chi phí đầu tư được quyết toán phải nằm trong giới hạn tổng mức đầu tư được duyệt hoặc được điều chỉnh, bổ sung theo quy định của pháp luật.” Tại Điều 14 Thông tư số 10/2020/TT-BTC quy định như sau: “Căn cứ tổng mức đầu tư được duyệt và báo cáo theo Mẫu số 04/QTDA, cơ quan chủ trì thẩm tra quyết toán thực hiện thẩm tra theo cơ cấu chi phí ghi trong tổng mức đầu tư: Chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, chi phí xây dựng, chi phí thiết bị, chi phí quản lý dự án, chi phí tư vấn đầu tư xây dựng, chi phí khác.” Theo quy định của Luật Đấu thầu và Luật Xây dựng, dự toán giá gói thầu xây dựng được cấp có thẩm quyền phê duyệt bao gồm cả chi phí dự phòng. Do đó, Mẫu số 04/QTDA ghi các nội dung chi phí đầu tư đề nghị quyết toán, trong đó dự án, dự toán được duyệt hoặc điều chỉnh các khoản chi phí theo cơ cấu chi phí ghi trong tổng mức đầu tư và giá trị đề nghị quyết toán theo cơ cấu chi phí hợp pháp đã thực hiện trong quá trình đầu tư. Bộ Tài chính có ý kiến để Quý Độc giả biết và thực hiện theo đúng quy định./.

Kính thưa Quý Bộ, Nghị định 123/2020/NĐ-CP có hiệu lực 1/7/2022 quy định về hóa đơn, chứng từ đã bãi bỏ khoản 2 và khoản 4 điều 35 của Nghị định 119/2018/NĐ-CP quy định về hóa đơn điện tử. Theo đó, không bắt buộc áp dụng hóa đơn điện tử từ ngày 1/11/2020, mà chỉ khuyến khích sử dụng đến trước ngày 1/7/2022. Xin hỏi Quý Bộ là đối với Doanh nghiệp đã thông báo phát hành sử dụng hóa đơn điện tử từ 1/11/2020 (Cơ quan thuế đã chấp nhận) thì có phải hủy hóa đơn giấy không, hay vẫn được sử dụng song song hóa đơn giấy và hóa đơn điện tử cho đến 30/6/2022? Nếu được thì nguyên tắc sử dụng như thế nào? Nhờ Quý Bộ tư vấn và giải đáp giúp Doanh nghiệp. Xin cảm ơn Quý Bộ

Căn cứ Khoản 3, Điều 14; Khoản 3, Điều 20 và Khoản 1, Khoản 3, Điều 35 Nghị định số 119/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 9 năm 2018 của Chính phủ quy định về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ như sau: “Điều 14. Đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế 3. Kể từ thời điểm sử dụng hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức khác, hộ, cá nhân kinh doanh phải thực hiện hủy những hóa đơn giấy còn tồn chưa sử dụng (nếu có) theo quy định.” “Điều 20. Đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử không có mã của cơ quan thuế 3. Kể từ thời điểm sử dụng hóa đơn điện tử không có mã của cơ quan thuế, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế phải thực hiện hủy những hóa đơn giấy còn tồn chưa sử dụng (nếu có).” “Điều 35. Hiệu lực thi hành 1. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 11 năm 2018. 3. Trong thời gian từ ngày 01 tháng 11 năm 2018 đến ngày 31 tháng 10 năm 2020, các Nghị định: số 51/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2010 và số 04/2014/NĐ-CP ngày 17 tháng 01 năm 2014 của Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ vẫn còn hiệu lực thi hành.” Căn cứ Khoản 1, Khoản 3, Điều 59 và Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3, Điều 60 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Chính phủ quy định về hóa đơn, chứng từ như sau: “Điều 59. Hiệu lực thi hành 1. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2022, khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân đáp ứng điều kiện về hạ tầng công nghệ thông tin áp dụng quy định về hóa đơn, chứng từ điện tử của Nghị định này trước ngày 01 tháng 7 năm 2022. 2. Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2010 của Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, Nghị định số 04/2014/NĐ-CP ngày 17 tháng 01 năm 2014 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị[...]

Công ty tôi dự thầu 1 gói thầu có giá trị xây lắp được duyệt là 4,4 tỷ đồng; gồm chi phí xây dựng, chi phí hạng mục chung, chi phí dự phòng. Tuy nhiên, hồ sơ mời thầu chỉ mời hạng mục xây lắp và hạng mục chung, không có phần dự phòng. Xin hỏi, đây là hợp đồng trọn gói, chi phí dự phòng có được tính trong giá dự thầu không? Nếu được tính thì tách riêng giá dự phòng hay phân bổ vào giá dự thầu của từng mục đầu công việc? Nếu giá dự phòng được phân bổ vào trong giá dự thầu của từng đầu công việc, khi thanh, quyết toán mà không phát sinh khối lượng thì giá trị dự phòng có bị cắt bỏ không?

Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 Thông tư số 10/2015/TT-BKHĐT ngày 26/10/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giá gói thầu được xác định trên cơ sở tổng mức đầu tư của dự án. Trường hợp dự toán đã được phê duyệt trước khi lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu thì căn cứ dự toán để lập giá gói thầu. Giá gói thầu được tính đúng, tính đủ toàn bộ chi phí để thực hiện gói thầu, kể cả chi phí dự phòng (chi phí dự phòng trượt giá, chi phí dự phòng phát sinh khối lượng và chi phí dự phòng cho các khoản tạm tính (nếu có)), phí, lệ phí và thuế. Đối với các gói thầu có thời gian thực hiện hợp đồng ngắn, không phát sinh rủi ro, trượt giá thì chi phí dự phòng được tính bằng không. Chi phí dự phòng do chủ đầu tư xác định theo tính chất từng gói thầu nhưng không được vượt mức tối đa do pháp luật chuyên ngành quy định. Giá gói thầu được cập nhật trong thời hạn 28 ngày trước ngày mở thầu nếu cần thiết. Theo đó, chi phí dự phòng thực hiện theo quy định nêu trên. Khi áp dụng loại hợp đồng trọn gói, nhà thầu được thanh toán bằng đúng giá ghi trong hợp đồng khi hoàn thành các nghĩa vụ theo hợp đồng theo quy định tại Khoản 1 Điều 62 Luật Đấu thầu.

Đơn vị của tôi là bên mời thầu. Trong quá trình xem xét, đánh giá E-HSDT, đơn vị tôi gặp tình huống như sau:

Một gói thầu xây lắp có 2 nhà thầu tham dự: Công ty A, công ty B.

– Phương pháp đánh giá E-HSDT:

Đánh giá về năng lực và kinh nghiệm: Sử dụng tiêu chí đạt/không đạt;

Đánh giá về kỹ thuật: Sử dụng tiêu chí đạt/không đạt;

Đánh giá về giá: Sử dụng phương pháp giá thấp nhất.

– Quy trình đánh giá: Áp dụng quy trình 01 theo Thông tư số 04/2017/TT-BKHĐT ngày 15/11/2017:

Bước 1: Đánh giá tính hợp lệ của E-HSDT; Bước 2: Đánh giá về năng lực và kinh nghiệm; Bước 3: Đánh giá về kỹ thuật; Bước 4: Xếp hạng nhà thầu.

– E-HSDT của các nhà thầu: Công ty A, công ty B đều đạt về năng lực, kinh nghiệm và kỹ thuật. Công ty B có giá dự thầu thấp hơn công ty A. Tuy nhiên, bản vẽ biện pháp tổ chức thi công phần khung tên của công ty B ghi người thực hiện là 2 nhân sự (X, Y) trong đề xuất dự thầu của công ty B, nhưng phần ghi tên công ty thì bản vẽ ghi tên công ty A chứ không phải công ty B.

Qua tìm hiểu được biết, công ty A và công ty B có mâu thuẫn với nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Với tình huống nêu trên, đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, hướng dẫn việc đánh giá E-HSDT của nhà thầu. Công ty nêu trên có vi phạm pháp luật về đấu thầu theo Điểm b Khoản 3 Điều 89 Luật Đấu thầu hay không?

 

Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau: Theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 89 Luật Đấu thầu, một trong các hành vi bị cấm trong đấu thầu là thỏa thuận để một hoặc nhiều bên chuẩn bị hồ sơ dự thầu cho các bên tham dự thầu để một bên thắng thầu. Theo đó, trường hợp hồ sơ dự thầu của hai nhà thầu có dấu hiệu thông đồng thì bên mời thầu yêu cầu nhà thầu giải thích, làm rõ. Sau khi giải thích, làm rõ, nếu bên mời thầu có bằng chứng về việc các nhà thầu thỏa thuận để một hoặc nhiều bên chuẩn bị hồ sơ dự thầu cho các bên tham dự thầu để một bên thắng thầu thì bị coi là hành vi bị cấm nêu trên. Trường hợp xác định nhà thầu không có hành vi thông thầu như đã nêu thì hồ sơ dự thầu được tiếp tục đánh giá theo nguyên tắc quy định tại Khoản 1 Điều 15 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ

Tôi là nhà đầu tư nước ngoài cư trú tại Việt Nam (có thẻ thường trú từ năm 2006 do Công an TPHCM cấp và được gia hạn liên tục, thời gian gia hạn của lần cuối cùng là đến năm 2027).

Năm 2007, tôi có chuyển khoản góp vốn từ tài khoản cá nhân ở nước ngoài vào tài khoản thanh toán của một công ty TNHH Việt Nam và tham gia trực tiếp điều hành hoạt động kinh doanh của công ty đó cho tới nay với số vốn góp trên 51% và được Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh công ty TNHH 2 thành viên như một công ty Việt Nam và không cấp giấy chứng nhận đầu tư.

Cho tôi hỏi, theo Thông tư số 06/2019/TT-NHNN, tôi là người nước ngoài cư trú thì có cần mở tài khoản đầu tư trực tiếp để chuyển lợi nhuận được chia ra nước ngoài hay không? Nếu như theo quy định mới người nước ngoài cư trú như tôi cũng phải mở tài khoản đầu tư trực tiếp thì trong thủ tục với ngân hàng có cần phải có Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hay không?

Tôi đã tham khảo ý kiến của Sở Kế hoạch và Đầu tư TPHCM và được trả lời: Vì công ty TNHH đã hình thành và hoạt động trước khi tôi góp vốn nên nếu bây giờ tôi xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (để phục vụ cho việc mở tài khoản đầu tư trực tiếp) thì Sở sẽ cấp cho công ty, chứ không cấp riêng cho cá nhân tôi và trên Giấy chứng nhận việc đầu tư của tôi sẽ không được thể hiện đã có từ hơn 10 năm trước.

Như vậy, trường hợp của tôi sẽ được hiểu là mới thực hiện đầu tư, trong khi sự việc này đã diễn ra từ rất lâu, gây thiệt thòi cho tôi.

Cho tôi hỏi, việc chuyển lợi nhuận được chia theo tỷ lệ góp vốn (sau khi đã hoàn thành tất cả các nghĩa vụ đối với nhà nước Việt Nam) của tôi sẽ phải thông qua tài khoản nào của công ty tôi góp vốn? Nếu phải thông qua tài khoản đầu tư trực tiếp mới vừa mở thì phần lợi nhuận của các năm trước chưa chuyển vào tài khoản cá nhân tôi ở nước ngoài có được chuyển tiếp đi hay không hay chỉ chuyển được lợi nhuận phát sinh từ sau khi mở tài khoản đầu tư trực tiếp mà thôi? Lợi nhuận tồn từ các năm trước của tôi muốn chuyển ra nước ngoài thì phải làm sao?

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trả lời vấn đề này như sau: Hiện nay, quy định quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện theo Pháp lệnh Ngoại hối (đã sửa đổi, bổ sung), Nghị định số 70/2014/NĐ-CP ngày 17/7/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Ngoại hối, Thông tư số 06/2019/TT-NHNN ngày 26/6/2019 hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Tại Khoản 1 Điều 3 Thông tư số 06/2019/TT-NHNN quy định: “Nhà đầu tư nước ngoài” bao gồm: Cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Khoản 2 Điều 3 Thông tư số 06/2019/TT-NHNN quy định: “Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm: … b) Doanh nghiệp không thuộc trường hợp quy định tại Điểm a khoản này có nhà đầu tư nước ngoài sở hữu từ 51% vốn điều lệ trở lên của doanh nghiệp…”. Khoản 1 Điều 4 Thông tư số 06/2019/TT-NHNN quy định: “Nhà đầu tư nước ngoài được thực hiện góp vốn đầu tư bằng ngoại tệ, đồng Việt Nam theo mức góp vốn của nhà đầu tư tại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, …, tài liệu khác chứng minh việc góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài phù hợp với quy định của pháp luật”. Khoản 3 Điều 4 và Khoản 1 Điều 9 Thông tư số 06/2019/TT-NHNN quy định: “Việc góp vốn đầu tư bằng tiền của nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư Việt Nam phải được thực hiện thông qua hình thức chuyển khoản vào tài khoản vốn đầu tư trực tiếp; nhà đầu tư nước ngoài phải chuyển lợi nhuận và các nguồn thu hợp pháp liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thông qua tài khoản vốn đầu tư trực tiếp”. Căn cứ các quy định nêu trên, từ thời điểm Thông tư số 06/2019/TT-NHNN có hiệu lực, doanh nghiệp có nhà đầu tư nước ngoài là người cư trú tham gia góp vốn từ 51% vốn điều lệ trở lên[...]