Công ty tôi tham gia gói thầu xây lắp. Hồ sơ mời thầu có yêu cầu gói thầu dành cho doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, và yêu cầu nộp báo cáo tài chính năm 2016, 2017, 2018 để chứng minh tình hình tài chính lành mạnh. Công ty của tôi năm 2018 là doanh nghiệp nhỏ, tuy nhiên năm 2019 là doanh nghiệp vừa (dựa vào doanh thu). Xin hỏi, hồ sơ không yêu cầu báo cáo tài chính năm 2019 thì công ty tôi có tham gia được gói thầu này không?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau: Khoản 3 Điều 6 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định đối với gói thầu xây lắp có giá gói thầu không quá 5 tỷ đồng chỉ cho phép nhà thầu là doanh nghiệp cấp nhỏ và siêu nhỏ theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp tham gia đấu thầu. Khoản 1 Điều 4 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14 quy định doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa, có số lao động tham gia BHXH bình quân năm không quá 200 người và đáp ứng một trong hai tiêu chí sau đây: (i) tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng; (ii) tổng doanh thu của năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng. Khoản 2 Điều 6 và Khoản 2 Điều 8 Nghị định 39/2018/NĐ-CP cụ thể hóa tiêu chí xác định doanh nghiệp theo quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa (có hiệu lực từ ngày 11/3/2018) như sau: Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực xây dựng theo quy định có số lao động tham gia BHXH bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng. Số lao động tham gia BHXH bình quân năm được tính bằng tổng số lao động tham gia BHXH của năm chia cho số tháng trong năm và được xác định trên chứng từ nộp BHXH của năm trước liền kề mà doanh nghiệp nộp cho cơ quan BHXH. Đối với vấn đề ông Nguyễn Văn Đạt nêu, việc xác định cấp của doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng được thực hiện theo quy định nêu trên.
Công ty TNHH X có 3 thành viên A, B, C. Do B và C không tán thành đối với nghị quyết của Hội đồng thành viên công ty X về vấn đề sửa đổi, bổ sung các nội dung trong Điều lệ công ty liên quan đến quyền của B và C nên B và C yêu cầu công ty X mua lại toàn bộ phần vốn góp của mình theo quy định tại Điều 52 Luật Doanh nghiệp 2014. Theo đó, Công ty X cũng sẽ giảm vốn điều lệ tương ứng khi công ty mua lại phần vốn góp của các thành viên theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 68 Luật Doanh nghiệp 2014. Đồng thời, B và C sẽ không còn là thành viên của công ty X nữa. Do đó, Công ty X sẽ phải chuyển đổi loại hình doanh nghiệp từ công ty TNHH hai thành viên trở lên (tức là A, B và C) thành công ty TNHH một thành viên (tức là A) ngay tại thời điểm công ty đăng ký giảm vốn điều lệ. Tuy nhiên, Điều 52 và Điểm b Khoản 3 Điều 68 Luật Doanh nghiệp 2014 không có quy định về việc chuyển đổi loại hình doanh nghiệp trong trường hợp công ty mua lại phần vốn góp. Ngoài ra, quy định về thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp trong Nghị định số 78/2015/NĐ-CP cũng không nêu rõ là doanh nghiệp cần làm gì để chuyển đổi loại hình doanh nghiệp trong trường hợp công ty mua lại phần vốn góp của thành viên. Đề nghị cơ quan chức năng giải đáp về thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp từ công ty TNHH hai thành viên trở lên thành công ty TNHH một thành viên khi đăng ký giảm vốn điều lệ trong trường hợp công ty mua lại phần vốn góp. Ngoài ra, các hồ sơ mà công ty X cần chuẩn bị để nộp tại Sở Kế hoạch và Đầu tư bao gồm những hồ sơ nào?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau: Theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 68 Luật Doanh nghiệp thì công ty có thể giảm vốn điều lệ trong trường hợp công ty mua lại phần vốn góp của thành viên của quy định tại Điều 52 của Luật này. Khoản 6 Điều 25 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp được sửa đổi, bổ sung bởi Khoản 5 Điều 1 Nghị định số 108/2018/NĐ-CP ngày 23/8/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 78/2015/NĐ-CP quy định: “Doanh nghiệp có thể đăng ký chuyển đổi loại hình doanh nghiệp đồng thời đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp khác, trừ trường hợp đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật. Trong trường hợp này, hồ sơ đăng ký chuyển đổi loại hình doanh nghiệp thực hiện tương ứng theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều này”. Khoản 5 Điều 14 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP quy định một trong các nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Đăng ký kinh doanh là hướng dẫn doanh nghiệp và người thành lập doanh nghiệp về hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp. Do vậy, đề nghị bà Nguyễn Thị Thiên Thanh liên hệ với Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính để được hướng dẫn cụ thể.
Cơ quan tôi là chủ đầu tư một công trình, do điều chỉnh thiết kế, nên dự toán cũng phải điều chỉnh. Dự toán trước đây được lập theo Nghị định số 32/2015/NĐ-CP ngày 25/3/2015 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng. Xin hỏi, điều chỉnh dự toán tại thời điểm hiện nay thì áp dụng Nghị định số 32/2015/NĐ-CP hay áp dụng Nghị định số 68/2019/NĐ-CP?
Bộ Xây dựng trả lời vấn đề này như sau: Việc chuyển tiếp áp dụng Nghị định số 68/2019/NĐ-CP ngày 14/8/2019 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng được quy định tại Điều 36 Nghị định số 68/2019/NĐ-CP, Điều 26 Thông tư số 09/2019/TT-BXD ngày 26/12/2019 của Bộ Xây dựng hướng dẫn xác định và quản lý chi phí đầu tư xây dựng. Theo nội dung câu hỏi của ông Dương Văn Định thì dự án được thực hiện quản lý chi phí đầu tư xây dựng theo quy định của Nghị định số 32/2015/NĐ-CP ngày 25/03/2015 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng. Quá trình thực hiện do điều chỉnh thiết kế dẫn tới đến phải điều chỉnh dự toán. Vì vậy, đây là dự án đã lựa chọn được tư vấn thiết kế và đang triển khai nên việc điều chỉnh dự toán xây dựng được tiếp tục thực hiện theo quy định của Nghị định số 32/2015/NĐ-CP. Việc điều chỉnh thiết kế, dự toán xây dựng phải phù hợp với các quy định pháp luật về xây dựng. Tuy nhiên cần lưu ý, việc điều chỉnh, cập nhật định mức, giá xây dựng, giá gói thầu thời điểm 28 ngày trước ngày mở thầu theo quy định các văn bản hiện hành tại thời điểm điều chỉnh do Người quyết định đầu tư quyết định trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc hiệu quả, tiến độ và tiết kiệm chi phí của dự án.
Công ty chúng tôi có nhu cầu giới thiệu khách hàng cá nhân là người Việt Nam của Công ty đến một số tổ chức tín dụng để vay tiêu dùng. Xin hỏi, trường hợp sau khi Công ty thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì có quyền yêu cầu khách hàng hoàn trả phần nghĩa vụ bảo lãnh mà Công ty đã thực hiện cho tổ chức tín dụng thay khách hàng theo thỏa thuận bảo lãnh không?
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trả lời vấn đề này như sau: Khoản 1 Điều 335 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Điều 340 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Khoản 14 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 (đã sửa đổi, bổ sung) quy định: “14. Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ tín dụng khác”. Khoản 18 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 quy định: “Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận”. Như vậy, căn cứ các quy định nêu trên, Công ty nghiên cứu và thực hiện theo quy định của pháp luật.
Công ty CP Bình Điền – Lâm Đồng do công ty mẹ là Công ty CP Phân bón Bình Điền nắm 51% vốn điều lệ. Công ty mẹ cũng là công ty CP do Tập đoàn Hóa chất nắm 65% vốn điều lệ. Hiện nay Công ty CP Bình Điền – Lâm Đồng đang chuẩn bị đầu tư dự án có tổng khái toán 450 tỷ đồng. Trong đó vốn tự có của Công ty là 50%, vốn vay thương mại 50%. Vậy khi thực hiện dự án Công ty có phải thực hiện theo Luật Đấu thầu không hay chỉ vận dụng để thực hiện dự án? Khi Công ty CP Bình Điền – Lâm Đồng đầu tư bằng vốn tự có của Công ty thì có phải là vốn của doanh nghiệp Nhà nước không? Vốn của doanh nghiệp Nhà nước bao gồm những nguồn vốn nào?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau: Điểm c Khoản 1 Điều 1 và Khoản 44 Điều 4 Luật Đấu thầu quy định dự án đầu tư phát triển không thuộc quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản này có sử dụng vốn Nhà nước, vốn của doanh nghiệp Nhà nước từ 30% trở lên hoặc dưới 30% nhưng trên 500 tỷ đồng trong tổng mức đầu tư của dự án thì thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu. Vốn Nhà nước bao gồm vốn ngân sách Nhà nước; công trái quốc gia, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương; vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ; vốn từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp; vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh; vốn vay được bảo đảm bằng tài sản của Nhà nước; vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước; giá trị quyền sử dụng đất. Khoản 8 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Đối với vấn đề nêu trên, do Công ty CP Bình Điền – Lâm Đồng không phải là doanh nghiệp Nhà nước nên việc xác định dự án do Công ty này làm chủ đầu tư thuộc hoặc không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thấu phải căn cứ vào phần vốn Nhà nước, vốn của doanh nghiệp Nhà nước trong tổng mức đầu tư của dự án và đối chiếu với quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 1 Luật Đấu thầu.
Năm 2019 tôi có làm việc tại Công ty CP Hàng không Jestar pacific arilines từ tháng 01 đến tháng 04; sau đó tôi nghỉ việc đến tháng 7/2019. Từ tháng 7/2019 đến tháng 12/2019 tôi làm việc tại công ty Vietjet. Năm 2020 tôi phải tự nộp quyết toán thuế TNCN tại nơi cư trú. Tuy nhiên lần đầu nộp hồ sơ do sai sót tôi không kê khai chỉ tiêu bảo hiểm xã hội. Sau khi cơ quan thuế có thông báo yêu cầu bổ sung thông tin, tôi nộp lại tờ khai bổ sung điều chỉnh chỉ tiêu Bảo hiểm xã hội dẫn đến tăng số tiền thuế TNCN được hoàn. Vậy tôi có bị phạt khai sai chỉ tiêu hay không? Mức phạt là bao nhiêu? quy định tại văn bản nào? Trân trọng cảm ơn quý ban!
– Căn cứ Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13 tháng 6 năm 2019 của Quốc hội: + Tại khoản 1 Điều 47 quy định về khai bổ sung hồ sơ khai thuế: “Điều 47. Khai bổ sung hồ sơ khai thuế 1. Người nộp thuế phát hiện hồ sơ khai thuế đã nộp cho cơ quan thuế có sai, sót thì được khai bổ sung hồ sơ khai thuế trong thời hạn 10 năm kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế có sai, sót nhưng trước khi cơ quan thuế, cơ quan có thẩm quyền công bố quyết định thanh tra, kiểm tra.” + Tại khoản 1 Điều 141 quy định về hành vi vi phạm thủ tục thuế: “Điều 141. Hành vi vi phạm thủ tục thuế 1. Hành vi vi phạm thủ tục thuế bao gồm: … d) Hành vi khai sai, khai không đầy đủ các nội dung trong hồ sơ thuế nhưng không dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn, không thu thuế, trừ trường hợp người nộp thuế khai bổ sung trong thời hạn quy định;” + Tại khoản 3 Điều 142 quy định về hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn, không thu “Điều 142. Hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn, không thu …3. Người nộp thuế khai sai dẫn đến làm thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn nếu đã khai bổ sung hồ sơ khai thuế và tự giác khắc phục hậu quả bằng cách nộp đủ số tiền thuế phải nộp trước thời điểm cơ quan thuế công bố quyết định kiểm tra thuế, thanh tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế hoặc trước thời điểm cơ quan thuế phát hiện không qua thanh tra, kiểm tra tại trụ sở của người nộp thuế hoặc trước khi cơ quan có thẩm quyền phát hiện thì không bị xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế.” – Căn cứ Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 của Quốc hội: + Tại Điều 34 quy định về khai bổ sung hồ[...]