Tôi đang công tác tại Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện Ba Tơ, tôi xin hỏi Bộ Tài chính nội dung sau: Tại điểm a Khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số 144/2014/TTLT-BTC-BVHTTDL, ngày 30 tháng 9 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí hoạt động phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, có quy định chi thù lao họp cho thành viên Ban Chỉ đạo phong trào các cấp. Vậy, mức chi thù lao họp cho thành viên Ban Chỉ đạo phong trào được xác định như thế nào? Xin cảm ơn Bộ Tài chính.
– Khoản 8 Điều 5 Thông tư liên tịch số 144/2014/TTLT-BTC-BVHTTDL quy định: “Đối với các nội dung chi khác có liên quan trực tiếp đến thực hiện phong trào nhưng chưa có quy định hướng dẫn định mức chi thực hiện theo chi phí thực tế phát sinh trên cơ sở hóa đơn, chứng từ hợp pháp, được cấp có thẩm quyền phê duyệt trong dự toán ngân sách hàng năm”. – Theo quy định tại Điểm h Khoản 9 Điều 30 Luật ngân sách nhà nước thì Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có quyền hạn: “Quyết định các chế độ chi ngân sách đối với một số nhiệm vụ chi có tính chất đặc thù ở địa phương ngoài các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách do Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn, phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách địa phương; Đồng thời, theo quy định tại Khoản 3 Điều 21 Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật ngân sách nhà nước quy định về quyền hạn, trách nhiệm của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh: “quyết định các chế độ chi ngân sách đối với một số nhiệm vụ chi có tính chất đặc thù ở địa phương ngoài các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn, phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách địa phương, ngân sách trung ương không hỗ trợ. Riêng những chế độ chi có tính chất tiền lương, tiền công, phụ cấp, trước khi quyết định phải có ý kiến của Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và các bộ quản lý ngành, lĩnh vực trực tiếp”. Vì vậy, đối với các nội dung chi chưa có quy định mức chi do Hội đồng nhân dân tỉnh xem xét, quyết định bảo đảm phù hợp với các quy định của Luật NSNN, Nghị định số[...]
Kính gửi: Bộ Tài chính. Đơn vị tôi là Ban Quản lý dự án ĐTXD cấp tỉnh, thực hiện lập dự toán, quyết toán tiền bán hồ sơ mời thầu theo Thông tư 190/2015/TT-BTC, hàng năm đều được kho bạc và cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định. Trong đó, các khoản chi quy định tại khoản 2, Điều 7, TT190 nêu trên gồm: a) Chi vật tư văn phòng (văn phòng phẩm; công cụ, dụng cụ văn phòng dùng riêng cho từng lễ mở thầu (nếu có)); b) Chi hội nghị (thuê hội trường trong trường hợp cơ quan, đơn vị không có địa điểm hoặc có nhưng không đáp ứng được số lượng đại biểu tham dự; thuê máy chiếu, trang thiết bị trực tiếp phục vụ hội nghị; nước uống trong cuộc họp; các khoản chi khác như: tiền làm thêm giờ, trang trí hội trường v.v…) c) Chi thông tin, tuyên truyền, liên lạc (cước phí điện thoại, cước phí bưu chính phục vụ việc gửi biên bản mở thầu cho các nhà thầu tham dự thầu (nếu có)); d) Chi phí khác liên quan trực tiếp đến công tác tổ chức mở thầu.
Khi cơ quan Thanh tra làm việc thì loại 2 khoản chi là tiền đăng báo mở thầu và bồi dưỡng mở thầu. Vậy, cơ quan Thanh tra làm vậy có đúng theo Thông tư 190/2015/TT-BTC nêu trên không?
1. Về chi phí đăng báo mở thầu: – Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Thông tư số 190/2015/TT-BTC ngày 17/11/2015 của Bộ Tài chính quy định về quản lý, sử dụng chi phí trong quá trình lựa chọn nhà thầu các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ thì: “2. Đối với chi phí đăng tải thông tin về đấu thầu, chi phí tham gia hệ thống mạng đấu thầu quốc gia và việc quản lý, sử dụng các khoản thu này trong quá trình lựa chọn nhà thầu không thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư này”. Do vậy, chi phí đăng tải thông tin về đấu thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng (trong đó có đăng báo) không thuộc đối tượng sử dụng tiền bán hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu để thanh toán. 2. Đối với chi phí bồi dưỡng mở thầu (chi bồi dưỡng cho cán bộ làm công tác xét thầu tham dự lễ mở thầu): Theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Thông tư số 190/2015/TT-BTC ngày 17/11/2015 của Bộ Tài chính quy định về quản lý, sử dụng chi phí trong quá trình lựa chọn nhà thầu các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ thì: “Khoản thu từ bán hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định được chi cho các nội dung phục vụ tổ chức mở thầu; bao gồm: a) Chi vật tư văn phòng (văn phòng phẩm; công cụ, dụng cụ văn phòng dùng riêng cho từng lễ mở thầu (nếu có)); b) Chi hội nghị (thuê hội trường trong trường hợp cơ quan, đơn vị không có địa điểm hoặc có nhưng không đáp ứng được số lượng đại biểu tham dự; thuê máy chiếu, trang thiết bị trực tiếp phục vụ hội nghị; nước uống trong cuộc họp; các khoản chi khác như: tiền làm thêm giờ, trang trí hội trường v.v…) c) Chi thông tin, tuyên truyền, liên lạc (cước phí điện thoại, cước phí bưu chính phục vụ việc gửi biên bản mở thầu cho các nhà thầu tham dự thầu (nếu có)); d) Chi phí khác liên quan trực tiếp đến công tác tổ chức mở thầu.”[...]
Xin hỏi, trụ sở của đơn vị sự nghiệp là tài sản Nhà nước, khi đã được bồi thường, hỗ trợ và chi phí phục vụ giải tỏa dự án đầu tư xây dựng công trình công cộng do công ty tư nhân làm chủ đầu tư có phải thực hiện thủ tục thanh lý tài sản Nhà nước theo quy định của Luật Tài sản Nhà nước (sự việc xảy ra từ năm 2015) và các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật không (Nghị định 52/2009/NĐ-CP…). Trong trường hợp phải tiến hành thanh lý thì đơn vị nào phải thực hiện thủ tục này?
Theo quy định tại Điều 34 Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, việc quản lý, sử dụng tài sản nhà nước tại đơn vị sự nghiệp công lập chưa tự chủ tài chính được thực hiện theo quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước tại cơ quan nhà nước. Theo quy định tại khoản 1 Điều 48 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP ngày 03/6/2009 của Chính phủ, việc thanh lý tài sản là trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp tại đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính được thực hiện theo quy định tại Mục 7 Chương II Nghị định số 52/2009/NĐ-CP (theo thanh lý tài sản tại cơ quan nhà nước). Theo quy định tại khoản 3 Điều 25 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP ngày 03/6/2009 của Chính phủ, việc thanh lý tài sản nhà nước được thực hiện trong trường hợp: “Trụ sở làm việc hoặc tài sản khác gắn liền với đất phải phá dỡ theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án đầu tư, giải phóng mặt bằng theo quy hoạch và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật”. Tại Điều 26 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP quy định thẩm quyền quyết định thanh lý tài sản nhà nước như sau: “1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan trung ương quyết định hoặc phân cấp thẩm quyền quyết định thanh lý tài sản nhà nước thuộc phạm vi quản lý. 2. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phân cấp thẩm quyền quyết định thanh lý tài sản nhà nước của các cơ quan nhà nước thuộc phạm vi quản lý”. Căn cứ các quy định nêu trên, trường hợp trụ sở của đơn vị sự nghiệp công lập đã được bồi thường, hỗ trợ và chi phí phục vụ giải phóng mặt bằng thực hiện dự án đầu tư theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; đơn vị sự nghiệp công lập có trách nhiệm báo cáo cấp có thẩm quyền theo quy định tại Điều 26 Nghị định số 52/2009/NĐ-CP quyết định việc thanh lý tài sản trên đất; trên cơ sở đó, đơn vị sự nghiệp có tài sản tổ chức thực hiện việc thanh lý theo quy định.
Tôi nghỉ hưu tháng 2/2018, đóng BHXH hơn 30 năm. Tôi được trợ cấp một lần tính từ năm đóng BHXH thứ 31. Năm 2018, nữ nghỉ hưu khi đủ 55 tuổi và có 30 năm đóng BHXH, nhưng năm 2019 chỉ yêu cầu có 25 năm đóng BHXH. Vậy, tôi có được truy lĩnh tiền trợ cấp 1 lần của 5 năm chênh lệch không?
BHXH Việt Nam trả lời vấn đề này như sau: Theo quy định tại Nghị định số 153/2018/NĐ-CP ngày 7/11/2018 của Chính phủ quy định chính sách điều chỉnh lương hưu đối với lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu trong giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2021 có thời gian đóng BHXH từ đủ 20 năm đến 29 năm 6 tháng có quy định nội dung: Lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu từ ngày 1/1/2018 đến ngày 31/12/2021 có thời gian đóng BHXH từ đủ 20 năm đến 29 năm 6 tháng tùy thuộc vào thời gian đã đóng BHXH và thời điểm bắt đầu hưởng lương hưu, mức lương hưu được điều chỉnh bằng mức lương hưu tính theo quy định tại Khoản 2 Điều 56 hoặc Khoản 2 Điều 74 Luật BHXH năm 2014 cộng với mức điều chỉnh theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định này. Như vậy, Nghị định số 153/2018/NĐ-CP chỉ quy định điều chỉnh lại mức lương hưu đối với lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu từ ngày 1/1/2018 đến ngày 31/12/2021 có thời gian đóng BHXH từ đủ 20 năm đến 29 năm 6 tháng bị tác động bất lợi hơn so với lao động nam do thay đổi cách tính lương hưu theo quy định của Luật BHXH năm 2014. Về trợ cấp một lần khi nghỉ hưu đối với lao động nữ hưởng lương hưu từ năm 2018 trở đi vẫn thực hiện theo quy định tại Điều 58 Luật BHXH năm 2014. Theo đó, lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 cũng như năm 2019 phải có trên 30 năm đóng BHXH mới được hưởng trợ cấp một lần khi nghỉ hưu. Do đó, việc tính hưởng trợ cấp một lần khi nghỉ hưu của bà tính từ năm thứ 31 trở đi là đúng quy định của chính sách.
Theo tôi thấy, do giá trị tiền lương 20 năm cuối trước khi nghỉ hưu khác nhau nên khi tính mức bình quân tiền lương của 20 năm này phải quy đổi tiền lương mỗi năm sang giá trị tiền hiện hành rồi mới tính bình quân, bởi nếu tính sai người lao động sẽ bị thiệt thòi.
BHXH Việt Nam trả lời vấn đề này như sau: Tại Khoản 1 Điều 62 Luật BHXH quy định cách tính bình quân tiền lương tháng đóng BHXH để tính lương hưu, trợ cấp một lần: Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương này thì tính bình quân tiền lương tháng của số năm đóng BHXH trước khi nghỉ hưu như sau: – Tham gia BHXH trước ngày 1/1/1995 thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của 5 năm cuối trước khi nghỉ hưu; – Tham gia BHXH trong khoảng thời gian từ ngày 1/1/1995 đến ngày 31/12/2000 thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của 6 năm cuối trước khi nghỉ hưu; – Tham gia BHXH trong khoảng thời gian từ ngày 1/1/2001 đến ngày 31/12/2006 thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của 8 năm cuối trước khi nghỉ hưu; – Tham gia BHXH trong khoảng thời gian từ ngày 1/1/2007 đến ngày 31/12/2015 thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của 10 năm cuối trước khi nghỉ hưu; – Tham gia BHXH từ ngày 1/1/2016 đến ngày 31/12/2019 thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của 15 năm cuối trước khi nghỉ hưu; – Tham gia BHXH từ ngày 1/1/2020 đến ngày 31/12/2024 thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của 20 năm cuối trước khi nghỉ hưu; – Tham gia BHXH từ ngày 1/1/2025 trở đi thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của toàn bộ thời gian. Khi tính mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH đối với người lao động thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định thì tiền lương đã đóng BHXH được điều chỉnh theo mức lương cơ sở tại thời điểm hưởng chế độ hưu trí BHXH đối với người lao động tham gia BHXH trước ngày 1/1/2016, đối với người lao động bắt đầu tham gia BHXH từ ngày 1/1/2016 trở đi thì tiền lương đã đóng BHXH để làm căn cứ tính mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH được điều chỉnh trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng của từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ[...]
Kính gửi Bộ Tài chính, Tôi đang công tác tại Ủy ban nhân dân phường và phụ trách kế toán quỹ Vì người nghèo cấp phường. Tôi đọc Thông tư 103/2018/TT-BTC ngày 14/01/2018 về kế toán áp dụng cho quỹ Vì người nghèo tại Khoản 2 Điều 3 có quy định: "Riêng xã, phường, thị trấn có thể bố trí người làm kế toán Quỹ “Vì người nghèo” hoặc người làm kế toán ngân sách và tài chính xã kiêm nhiệm kế toán Quỹ “Vì người nghèo” thực hiện tập hợp chứng từ kế toán ghi sổ thu, chi và lập báo cáo thu chi hoạt động Quỹ “Vì người nghèo”". Xin cho tôi hỏi: vậy kế toán quỹ vì người nghèo cấp phường, xã khi lập chứng từ có phải định khoản kép và có phải lập các báo cáo tài chính theo quy định trong Thông tư 103 không? Tôi xin trân trọng cảm ơn.
Ngày 14/11/2018 Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 103/2018/TT-BTC hướng dẫn kế toán áp dụng cho Quỹ “Vì người nghèo”, trong đó khoản 2 Điều 3 về tổ chức bộ máy kế toán quy định ở cấp xã có thể bố trí người làm kế toán quỹ hoặc người làm kế toán ngân sách và tài chính xã kiêm nhiệm kế toán Quỹ “Vì người nghèo”. Về các nghiệp vụ kế toán: – Khoản 2, Điều 5 Thông tư số 103 quy định: “Các tài khoản trong bảng phản ánh toàn bộ các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh gồm tài sản, nguồn vốn, thu quỹ, chi hoạt động quỹ, thặng dư (thâm hụt) tại Quỹ “Vì người nghèo” trong kỳ kế toán. Các tài khoản trong bảng được hạch toán kép (hạch toán bút toán đối ứng giữa các tài khoản). – Danh mục báo cáo của Phụ lục số 4 “Hệ thống Báo cáo tài chính” của Thông tư số 103 quy định: đối tượng lập Báo cáo tài chính (mẫu số B01-Q) là: cấp Trung ương, Tỉnh và đối tượng lập Báo cáo thu, chi hoạt động quỹ (mẫu số B02-Q) là: cấp Huyện, Xã. Theo đó, kế toán Quỹ “Vì người nghèo” các cấp khi lập chứng từ phải hạch toán kép và lập Báo cáo tài chính theo quy định. Trên đây là ý kiến của Bộ Tài chính, đề nghị quý độc giả nghiên cứu thực hiện.