Trường hợp Giám đốc có quốc tịch Nhật Bản, không có giấy phép lao động, là chủ sở hữu công ty TNHH MTV tại Việt Nam có vốn đầu tư nước ngoài, nếu được hưởng lương hàng tháng thì có bắt buộc tham gia BHXH không?
Bảo hiểm xã hội TPHCM trả lời vấn đề này như sau: Tại Khoản 2 Điều 2 Luật BHXH số 58/2014/QH13 ngày 20/11/2014 quy định người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia BHXH bắt buộc. Điều 2 Nghị định số 143/2018/NĐ-CP ngày 15/10/2018 của Chính phủ quy định người lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc khi có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp và có hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 1 năm trở lên với người sử dụng lao động tại Việt Nam. Trường hợp người lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam theo diện di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp như quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 3/2/2016 của Chính phủ và người lao động đã đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại khoản 1 Điều 187 của Bộ luật Lao động thì không thuộc đối tượng đóng BHXH bắt buộc. Tại Điều 13 Nghị định số 143/2018/NĐ-CP quy định mức đóng và phương thức đóng của người sử dụng lao động, hàng tháng đóng trên quỹ tiền lương tháng đóng BHXH của người lao động như sau: Từ ngày 1/12/2018 đóng 3% vào quỹ ốm đau và thai sản; 0,5% vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; từ ngày 1/1/2022 đóng 14% vào quỹ hưu trí và tử tuất từ ngày 1/1/2022.
Đề nghị cơ quan chức năng giải đáp một số nội dụng sau: Nhà thầu tư vấn lập Báo cáo kinh tế kỹ thuật của công trình A có được tham gia cung cấp dịch vụ tư vấn quản lý dự án và tư vấn lựa chọn nhà thầu của công trình A không? Nếu có hoặc không thì theo quy định nào của pháp luật? Nhà thầu tư vấn quản lý dự án có được cung cấp dịch vụ tư vấn lựa chọn nhà thầu mà nhà thầu đã tham gia và đã hợp đồng tư vấn quản lý dự án không? Trường hợp tại tỉnh và huyện thời điểm phát sinh dự án xây dựng các công trình của xã để hoàn thành Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới của xã giai đoạn 2011-2020, cụ thể là từ năm 2018 đến tháng 11/2019 không có Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành, Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng khu vực, UBND xã do chưa có đủ năng lực nên đã thương thảo và ký hợp đồng thuê tư vấn quản lý dự án các công trình của xã. Vậy, trong trường hợp này xã ký hợp đồng thuê tư vấn quản lý dự án đầu tư xây dựng các công của xã có đúng quy định của pháp luật về xây dựng không? Nếu xã ký hợp đồng thuê tư vấn quản lý dự án đầu tư xây dựng là đúng quy định của pháp luật, trong trường hợp này khi xã nhập sang địa giới hành chính khác mà địa giới hành chính khác lại có Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản và phòng chuyên môn về xây dựng của địa giới hành chính mới đề nghị Chủ đầu tư (UBND xã) ký lại hợp đồng quản lý dự án các công trình phát sinh trước ngày 1/12/2019, ngày xã chưa nhập về địa giới hành chính mới với Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ bản của địa giới hành chính mới. Trong trường hợp này Chủ đầu tư (UBND xã) nên thực hiện như thế nào là đúng quy định của pháp luật, vì các hợp đồng đã ký đang có, còn hiệu lực thi hành. Có quy định nào của pháp luật về xây dựng khi điều chỉnh dự án đầu tư xây dựng, điều chỉnh thiết kế, dự toán xây dựng công trình, phạm vi công việc, giá trị dự toán điều chỉnh không vượt tổng mức đầu tư được duyệt, chủ đầu tư (người quyết định đầu tư) phải xin ý kiến của cơ quan có thẩm quyền cấp trên không phải là người quyết định đầu tư rồi mới được thực hiện điều chỉnh không? Trường hợp ở một đơn vị hành chính có quy chế làm việc mà khi điều chỉnh dự án đầu tư xây dựng, điều chỉnh thiết kế, dự toán xây dựng công trình, phạm vi công việc, giá trị dự toán điều chỉnh không vượt tổng mức đầu tư được duyệt, đều phải được sự chấp thuận, đồng ý của cơ quan có thẩm quyền không phải là người quyết định đầu tư mới được thực hiện việc điều chỉnh. Vậy, trong trường hợp này Chủ đầu tư nên thực hiện thế nào thì đúng quy định của pháp luật?
Cục Quản lý hoạt động xây dựng – Bộ Xây dựng trả lời như sau: Không cấm nhà thầu tư vấn đồng thời tham gia cung cấp dịch vụ khác Theo quy định của pháp luật về xây dựng thì không có quy định cấm việc nhà thầu tư vấn đồng thời tham gia lập Báo cáo kinh tế kỹ thuật, tham gia cung cấp dịch vụ tư vấn quản lý dự án và/hoặc tư vấn lựa chọn nhà thầu của cùng một công trình. Chủ đầu tư được thuê tổ chức, cá nhân quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình Căn cứ quy mô, tính chất nguồn vốn sử dụng và điều kiện thực hiện dự án, người quyết định đầu tư quyết định áp dụng hình thức tổ chức quản lý dự án đầu tư xây dựng được quy định tại khoản 1 Điều 62 Luật Xây dựng. Trường hợp dự án đầu tư xây dựng công trình có tổng mức đầu tư dưới 15 tỷ đồng, theo quy định tại khoản 8 Điều 1 Nghị định số 42/2017/NĐ-CP ngày 5/4/2017 của Chính phủ quy định: Chủ đầu tư sử dụng tư cách pháp nhân của mình và bộ máy chuyên môn trực thuộc có đủ điều kiện, năng lực để trực tiếp quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình có tổng mức đầu tư dưới 15 tỷ đồng; trường hợp không đủ điều kiện thực hiện, chủ đầu tư được thuê tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện năng lực theo quy định tại Nghị định này để thực hiện. Trường hợp đã thực hiện áp dụng mô hình Ban quản lý dự án phù hợp quy định nêu trên; hợp đồng xây dựng có hiệu lực khi đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 139 Luật Xây dựng. Thẩm quyền chấp nhận điều chỉnh dự án đầu tư xây dựng Việc điều chỉnh dự án đầu tư xây dựng được quy định tại Điều 61 Luật Xây dựng, trong đó có các quy định: – Việc điều chỉnh dự án sử dụng vốn nhà nước do người quyết định đầu tư quyết định. – Trường hợp điều chỉnh dự án làm thay đổi mục tiêu, quy mô, địa điểm xây dựng thì phải được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm[...]
Xin đề nghị giải đáp trường hợp sau: Thỏa thuận liên danh được ký kết ngày 27/9/2019 giữa công ty A liên danh với công ty B là liên danh công ty A + B (công ty A là thành viên đứng đầu liên danh, và công ty A sẽ thực hiện bảo lãnh cho cả liên danh). Bảo lãnh dự thầu chỉ bảo lãnh/thực hiện riêng lẻ cho công ty A nhưng giá trị bảo lãnh bằng với yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Thông báo bảo lãnh dự thầu được phát hành ngày 25/9/2019 của Ngân hàng (thời gian thực hiện bảo lãnh trước thời điểm 2 bên ký kết liên danh). Xin hỏi, bảo lãnh dự thầu này có hợp lệ không? Bảo lãnh dự thầu cho liên danh thực hiện trước khi thỏa thuận liên danh có hợp lệ không?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau: Theo quy định tại Khoản 2, Điều 18 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, hồ sơ dự thầu hợp lệ phải có bảo đảm dự thầu với giá trị và thời hạn hiệu lực đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Đối với trường hợp quy định bảo đảm dự thầu theo hình thức nộp thư bảo lãnh thì thư bảo lãnh phải được đại diện hợp pháp của tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam ký tên với giá trị và thời hạn hiệu lực, đơn vị thụ hưởng theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Theo đó, việc đánh giá tính hợp lệ của bảo đảm dự thầu thực hiện theo quy định của hồ sơ mời thầu, trên cơ sở quy định nêu trên và thuộc trách nhiệm của tổ chuyên gia, bên mời thầu.
Người lao động xin nghỉ việc từ ngày 1/11/2019, ngày 12/11/2019 kế toán công ty mới báo giảm lao động thì công ty có phải đóng BHXH, BHYT tháng 11 cho lao động không? Trong lúc làm việc người lao động chỉ cung cấp số sổ BHXH để công ty đóng BHXH mà không nộp sổ BHXH về công ty, tháng 12 sổ BHXH của người lao động mới được chuyển về công ty để chốt sổ thì thủ tục như thế nào?
Bảo hiểm xã hội Việt Nam trả lời vấn đề này như sau: Căn cứ quy định của pháp luật về BHXH, BHYT hướng dẫn tại Điểm 2.1 Khoản 2 Điều 50 quy trình thu BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ-BNN; Quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT ban hành kèm theo Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam, người lao động nghỉ việc, thôi việc chấm dứt hợp đồng lao động thì đơn vị sử dụng lao động kịp thời lập hồ sơ gửi cơ quan BHXH để báo giảm (dừng) tham gia BHXH, BHYT đối với người lao động. Trường hợp đơn vị sử dụng lao động lập danh sách báo giảm chậm thì phải đóng số tiền BHYT của các tháng báo giảm chậm và thẻ BHYT có giá trị sử dụng đến hết các tháng đó. Đối chiếu quy định và hướng dẫn nêu trên, trường hợp công ty nơi bà Phạm Băng Thanh làm việc có người lao động nghỉ việc từ ngày 1/11/2019 đến ngày 12/11/2019 kế toán của công ty mới báo giảm lao động thì phải đóng BHXH đến hết tháng 10/2019 và đóng BHYT đến hết tháng 11/2019 cho người lao động. Căn cứ quy định tại Khoản 5 Điều 21 Luật BHXH năm 2014, người sử dụng lao động có trách nhiệm phối hợp với cơ quan BHXH và trả sổ BHXH cho người lao động. Xác nhận thời gian đóng BHXH khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc theo quy định của pháp luật. Đối chiếu quy định nêu trên, trường hợp người lao động tại Công ty đã nghỉ việc từ ngày 1/11/2019 nhưng đến tháng 12/2019 mới cung cấp sổ BHXH cho thời gian làm việc tại đơn vị trước đây thì Công ty chuyển sổ BHXH cho người lao động gửi cơ quan BHXH để rà soát, xác nhận tổng thời gian đã đóng BHXH để đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
Tôi ký hợp đồng lao động từ tháng 9/2018 đến tháng 9/2019 nộp đơn xin nghỉ việc. Công ty đồng ý và chốt sổ BHXH cho ông từ ngày 1/11/2019 với nội dung “Giải quyết chế độ thôi việc cho nhân viên gồm các khoản tiền được hưởng khi thôi việc và thuế TNCN” không có Quyết định nghỉ việc hay thỏa thuận nghỉ việc. Vậy tôi nộp hồ sơ để nhận trợ cấp thất nghiệp gồm: Hợp đồng lao động 1 năm đã ký với công ty và giấy Giải quyết chế độ thôi việc cho nhân viên để thay thế quyết định nghỉ việc có được không? Thời hạn nộp hồ sơ trùng với ngày nghỉ Tết Nguyên đán thì có được kéo dài thêm thời hạn nộp hồ sơ để nhận trợ cấp thất nghiệp qua tháng 2/2020 không?
Bảo hiểm xã hội TP. Hồ Chí Minh trả lời vấn đề này như sau: Hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp: Điều 16 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 quy định hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp gồm: – Đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định; – Bản chính hoặc bản sao có chứng thực của một trong các giấy tờ sau đây xác nhận về việc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc: Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã hết hạn hoặc đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động; Quyết định thôi việc; Quyết định sa thải; Quyết định kỷ luật buộc thôi việc; Thông báo hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc. Trường hợp người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 43 Luật Việc làm thì giấy tờ xác nhận về việc chấm dứt hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng là bản chính hoặc bản sao có chứng thực của hợp đồng đó; – Sổ BHXH. Trường hợp công ty không lập Quyết định nghỉ việc thì hợp đồng lao động là thủ tục làm căn cứ giải quyết trợ cấp thất nghiệp. Trường hợp của ông nghỉ việc từ tháng 9/2019 mà đến ngày 1/11/2019 công ty mới giải quyết và chốt sổ thì ông chưa đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP. Về thời hạn nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp, Khoản 1 Điều 46 Luật Việc làm quy định: Trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, người lao động nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm do cơ quan quản lý nhà nước về việc làm thành lập. Do đó, thời hạn nộp hồ sơ tính từ tháng 9/2019, không phải tháng 11/2019. Trường hợp ngày cuối cùng nộp hồ sơ mà rơi vào ngày nghỉ và ngày lễ, Tết thì sẽ[...]
Kính gửi: Bộ Tài chính! Năm 2019, Trung tâm tôi được phân loại là đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư. Hoạt động mua sắm tài sản tại đơn vị tôi được thực hiện mua sắm từ nguồn NSNN, nguồn thu phí, nguồn Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp. Theo quy định tại Thông tư số 45/2018 ngày 7/5/2018 của Bộ Tài Chính hướng dẫn chế độ quản lý, tính hao mòn, khấu hao TSCD thì đơn vị tôi phải thực hiện trích khấu hao TSCD, chi phí trích khấu hao được bổ sung vào Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp. Tuy nhiên, Thông tư số 107/2017/TT-BTC hướng dẫn chế độ kế toán hành chính sự nghiệp chưa có hướng dẫn bổ sung Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp từ chi phí khấu hao TSCD mua từ nguồn NSNN và nguồn phí. Vì vậy, tôi mong Quý Bộ có hướng dẫn về việc này để đơn vị tôi thực hiện đúng quy định. Xin cảm ơn!
Thông tư 107/2017/TT-BTC của Bộ Tài chính về chế độ kế toán hành chính sự nghiệp đã hướng dẫn rất rõ các bút toán ghi bổ sung quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp đối với khoản khấu hao tài sản từ nguồn NSNN và có nguồn gốc NSNN tại các phần giải thích nội dung kết cấu và phương pháp ghi chép các tài khoản (mục II, Phụ lục số 02) đối với TK 211- TSCĐ hữu hình, TK 214- Khấu hao và hao mòn lũy kế TSCĐ, TK 421- Thặng dư (thâm hụt) lũy kế, TK TK 431- các quỹ,…