Tôi đang thực hiện thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu một gói thầu xây lắp tổ chức lựa chọn nhà thầu qua mạng theo phương thức một giai đoạn, một túi hồ sơ. Có hai nhà thầu tham dự thầu: Nhà thầu thứ nhất: Bảo đảm dự thầu được ký ngày 14/8/2019 cấp cho liên danh nhưng thỏa thuận liên danh được ký ngày 16/8/2019. Vậy, trường hợp này đánh giá bảo đảm dự thầu không hợp lệ có đúng không? Có cần làm rõ E-HSDT hay cho phép nhà thầu chính sửa không? Nhà thầu thứ hai: Đánh giá tiêu chí kỹ thuật không đáp ứng E-HSMT và trong quá trình đánh giá tài chính phát hiện nhà thầu kê khai không trung thực so với một gói thầu khác đã thực hiện tham dự thầu trước đó. Vậy, trường hợp nhà thầu thứ hai phải xử lý như thế nào? Trong trường hợp này bên mời thầu tuyên bố hủy thầu có hợp lệ không?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau: Khoản 2, Điều 18 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định một trong các điều kiện đánh giá tính hợp lệ của hồ sơ dự thầu là có bảo đảm dự thầu với giá trị và thời hạn hiệu lực đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Đối với trường hợp quy định bảo đảm dự thầu theo hình thức nộp thư bảo lãnh thì thư bảo lãnh phải được đại diện hợp pháp của tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam ký tên với giá trị và thời hạn hiệu lực, đơn vị thụ hưởng theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Theo hướng dẫn tại Mục 18.1 Chương I của Mẫu hồ sơ mời thầu xây lắp áp dụng phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ (Mẫu số 01) ban hành kèm theo Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT ngày 6/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trường hợp liên danh thì phải thực hiện biện pháp bảo đảm dự thầu theo một trong hai cách sau: – Từng thành viên trong liên danh sẽ thực hiện riêng rẽ bảo đảm dự thầu nhưng bảo đảm tổng giá trị không thấp hơn mức yêu cầu quy định tại Mục 18.2 CDNT; nếu bảo đảm dự thầu của một thành viên trong liên danh được xác định là không hợp lệ thì hồ sơ dự thầu của liên danh đó sẽ không được xem xét, đánh giá tiếp. Nếu bất kỳ thành viên nào trong liên danh vi phạm quy định của pháp luật dẫn đến không được hoàn trả bảo đảm dự thầu theo quy định tại Mục 18.5 CDNT thì bảo đảm dự thầu của tất cả thành viên trong liên danh sẽ không được hoàn trả; – Các thành viên trong liên danh thỏa thuận để một thành viên chịu trách nhiệm thực hiện biện pháp bảo đảm dự thầu cho thành viên liên danh đó và cho thành viên khác trong liên danh. Trong trường hợp này, bảo đảm dự thầu có thể bao gồm tên của liên danh hoặc tên của thành viên chịu trách nhiệm thực hiện biện pháp bảo đảm dự thầu cho cả liên danh nhưng bảo đảm tổng giá[...]
Cơ quan tôi là một trường Tiểu học, vừa qua có thực hiện việc gói thầu mua sắm bàn ghế cho học sinh. Trong quá trình mua sắm phát sinh khoản thu bán hồ sơ mời thầu với số tiền 5.000.000 đồng. Xin hỏi hạch toán nguồn thu đó vào tài khoản 531 hay tài khoản 711?
Trường tiểu học là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc địa phương, vì vậy đơn vị là đối tượng áp dụng chế độ kế toán hành chính sự nghiệp ban hành theo Thông tư 107/2017/TT-BTC. Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại đơn vị được phản ánh vào sổ sách kế toán theo quy định của chế độ kế toán này. Việc hạch toán khoản thu bán hồ sơ mời thầu mua sắm tài sản nhằm duy trì hoạt động của đơn vị đề nghị độc giả nghiên cứu quy định liên quan đến tài khoản 337 tại Thông tư 107/2017/TT-BTC về chế độ kế toán hành chính sự nghiệp để triển khai thực hiện.
Quá trình thực hiện trong lĩnh vực đấu thầu, tôi có một số vướng mắc sau: Theo nội dung tại Khoản 3, Điều 6 Luật Đấu thầu:“3. Đối với gói thầu xây lắp có giá gói thầu không quá 05 tỷ đồng chỉ cho phép nhà thầu là doanh nghiệp cấp nhỏ và siêu nhỏ theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp tham gia đấu thầu”. Gói thầu E có giá gói thầu không quá 5 tỷ đồng. Hồ sơ mời thầu được lập theo Mẫu hồ sơ mời thầu xây lắp áp dụng phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ (Mẫu số 01) ban hành kèm theo Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT ngày 6/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Nội dung tại CDNT 4.1 Chương II của hồ sơ mời thầu có quy định như sau: Điều kiện về cấp doanh nghiệp: Là doanh nghiệp cấp nhỏ và siêu nhỏ theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP. Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại Khoản 1 và 2, Điều 6 Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ, như sau: – Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực xây dựng có số lao động tham gia BHXH bình quân năm 2018 không quá 10 người và đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: (1) Tổng doanh thu của năm 2018 không quá 3 tỷ đồng; (2) Hoặc tổng nguồn vốn của năm 2018 không quá 3 tỷ đồng. – Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực xây dựng có số lao động tham gia BHXH bình quân năm 2018 không quá 100 người và và đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: (1) Tổng doanh thu của năm 2018 không quá 50 tỷ đồng; (2) Hoặc tổng nguồn vốn của năm 2018 không quá 20 tỷ đồng. Lưu ý: Nhà thầu phải cung cấp các tài liệu liên quan kèm theo hồ sơ dự thầu để chứng minh là doanh nghiệp siêu nhỏ hoặc doanh nghiệp nhỏ. Việc xác định số lao động tham gia BHXH bình quân năm, tổng nguồn vốn và tổng doanh thu của doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại Điều 8, Điều 9, Điều 10 Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ. Hồ sơ dự thầu của nhà thầu A có kèm văn bản của cơ quan thuế (Chi cục Thuế) xác nhận nhà thầu A là doanh nghiệp cấp nhỏ để chứng minh nhà thầu A là doanh nghiệp cấp nhỏ và siêu nhỏ theo quy định tại CDNT 4.1 Chương II của Hồ sơ mời thầu. Hồ sơ dự thầu không kèm theo tài liệu chứng minh về số lao động tham gia BHXH bình quân năm 2018 không quá 100 người. Xin hỏi, trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu nhà thầu A, tổ chuyên gia xét thầu và bên mời thầu có được đánh giá nhà thầu A là doanh nghiệp cấp nhỏ theo văn bản xác nhận của cơ quan thuế hay không và không cần yêu cầu nhà thầu A làm rõ chứng minh về số lao động tham gia BHXH bình quân năm 2018 không quá 100 người như vậy có được không?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau: Khoản 3, Điều 6 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định đối với gói thầu xây lắp có giá gói thầu không quá 5 tỷ đồng chỉ cho phép nhà thầu là doanh nghiệp cấp nhỏ và siêu nhỏ theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp tham gia đấu thầu. Khoản 1, Điều 4 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14 quy định doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa, có số lao động tham gia BHXH bình quân năm không quá 200 người và đáp ứng một trong hai tiêu chí sau đây: – Tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng; – Tổng doanh thu của năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng. Khoản 2, Điều 6 và Khoản 2, Điều 8 Nghị định số 39/2018/NĐ-CP của Chính phủ cụ thể hóa tiêu chí xác định doanh nghiệp theo quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa như sau: Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực xây dựng theo quy định có số lao động tham gia BHXH bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng. Số lao động tham gia BHXH bình quân năm được tính bằng tổng số lao động tham gia BHXH của năm chia cho số tháng trong năm và được xác định trên chứng từ nộp BHXH của năm trước liền kề mà doanh nghiệp nộp cho cơ quan BHXH. Theo đó, việc xác định cấp doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng thực hiện theo quy định nêu trên. Trường hợp bên mời thầu nhận thấy tài liệu nhà thầu cung cấp chưa đủ rõ để chứng minh cấp doanh nghiệp thì yêu cầu nhà thầu làm rõ theo quy định tại Điều 16 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ.
Công ty A và công ty B liên danh tham gia đấu thầu gọi là liên danh nhà thầu công ty A và công ty B để tham gia đấu thầu gói thầu mua sắm hàng hóa do công ty DX làm chủ đầu tư. Trong thỏa thuận liên danh công ty A phụ trách 20% giá trị gói thầu, công ty B phụ trách 80% trong thỏa thuận quy định theo mẫu, ngoài ra còn có quy định thành viên đứng đầu liên danh công ty A "chịu trách nhiệm về tài chính để thực hiện gói thầu, đại diện liên danh xuất hóa đơn GTGT cho toàn bộ gói thầu và nhận toàn bộ tiền thanh toán từ chủ đầu tư để phân phối lại lợi nhuận cho các thành viên trong liên danh". Quá trình thực hiện công ty A ký hợp đồng kinh tế với công ty B toàn bộ 80% phần công việc công ty B phụ trách trong liên danh và công ty A cấp vào chủ đầu tư công ty DX. Xin hỏi, cách làm của công ty A và công ty B có vi phạm quy định của luật không?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau: Khoản 3, Điều 5 Luật Đấu thầu quy định nhà thầu có tư cách hợp lệ theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này được tham dự thầu với tư cách độc lập hoặc liên danh; trường hợp liên danh phải có văn bản thỏa thuận giữa các thành viên, trong đó quy định rõ trách nhiệm của thành viên đứng đầu liên danh và trách nhiệm chung, trách nhiệm riêng của từng thành viên trong liên danh. Theo hướng dẫn tại Mục 2 Chương III của Mẫu HSMT mua sắm hàng hóa áp dụng phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ (Mẫu số 02) ban hành kèm theo Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT ngày 16/6/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đối với nhà thầu liên danh thì năng lực, kinh nghiệm được xác định bằng tổng năng lực, kinh nghiệm của các thành viên liên danh song phải bảo đảm từng thành viên liên danh đáp ứng năng lực, kinh nghiệm đối với phần việc mà thành viên đó đảm nhận trong liên danh; nếu bất kỳ thành viên nào trong liên danh không đáp ứng về năng lực, kinh nghiệm thì nhà thầu liên danh được đánh giá là không đáp ứng yêu cầu. Theo đó, trường hợp nhà thầu liên danh trúng thầu thì từng thành viên trong liên danh có trách nhiệm thực hiện phần công việc thuộc trách nhiệm của mình theo phân công trong thỏa thuận liên danh mà không được ủy quyền cho thành viên khác trong liên danh thực hiện Trường hợp nhà thầu chuyển nhượng cho nhà thầu khác phần công việc thuộc gói thầu có giá trị từ 10% trở lên hoặc dưới 10% nhưng trên 50 tỷ đồng (sau khi trừ phần công việc thuộc trách nhiệm của nhà thầu phụ) tính trên giá hợp đồng đã ký kết thì nhà thầu có hành vi chuyển nhượng thầu quy định tại Điểm a, Khoản 8 Điều 89 Luật Đấu thầu. Liên quan đến việc ủy quyền xuất hóa đơn, chứng từ, đề nghị Công ty liên hệ với Bộ Tài chính để được hướng dẫn cụ thể.
Công ty tôi đang lựa chọn nhà thầu theo hình thức đấu thầu rộng rãi trong nước 1 thiết bị. Trong hồ sơ mời thầu yêu cầu thiết bị có xuất xứ từ các nước G7 thì được ưu tiên và đưa vào giá đánh giá. Hiện có 1 nhà thầu chào thiết bị ghi xuất xứ tại Italy (có chứng chỉ xuất xứ hàng hóa CO). Trong thông tin kỹ thuật của hồ sơ dự thầu của nhà thầu thì ghi thiết bị được hoàn thiện tại 1 nhà máy Timsan ở Italy. Tuy nhiên, khi Công ty tôi tìm hiểu thì nhà máy Timsan chỉ có ở Thổ Nhĩ Kỳ mà không có ở Italy, ngoài ra trong hồ sơ dự thầu nhà thầu cung cấp các hợp đồng tương tự thì các thiết bị đều sản xuất tại nhà máy Timsan tại Thổ Nhĩ Kỳ. Công ty đã gửi công văn yêu cầu nhà thầu làm rõ và cung cấp địa chỉ nhà máy Timsan tại Italy và được nhà thầu trả lời là thiết bị được sản xuất và hoàn thiện tại nhà máy của tập đoàn Fresia tại Italy – nhà sản xuất OEM của Timsan. Do đó, Công ty đã xác định Timsan không có nhà máy sản xuất tại Italy như trong hồ sơ dự thầu của nhà thầu. Cho tôi hỏi, trường hợp nhà thầu có hồ sơ dự thầu và công văn làm rõ có sự mâu thẫu như trên thì có được xem là "Không bảo đảm nguyên tắc không làm thay đổi bản chất của nhà thầu tham dự thầu, không làm thay đổi nội dung cơ bản của hồ sơ dự thầu đã nộp" không? Thiết bị này có được xem là thiết bị có xuất xứ tại Italy không?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau: Khoản 1, Điều 15 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc đánh giá hồ sơ dự thầu phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu và các yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu, căn cứ vào hồ sơ dự thầu đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ hồ sơ dự thầu của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 16 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, đối với các nội dung đề xuất về kỹ thuật, tài chính nêu trong hồ sơ dự thầu của nhà thầu, việc làm rõ phải bảo đảm nguyên tắc không làm thay đổi nội dung cơ bản của hồ sơ dự thầu đã nộp, không thay đổi giá dự thầu. Theo hướng dẫn tại Mục 5.3 Chương I Mẫu hồ sơ mời thầu hàng hóa một giai đoạn một túi hồ sơ ban hành kèm theo Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT ngày 16/6/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để chứng minh tính hợp lệ của hàng hóa và dịch vụ liên quan theo quy định tại Mục 5,1 CDNT, nhà thầu cần nêu rõ xuất xứ của hàng hoá, ký mã hiệu, nhãn mác của hàng hóa và các tài liệu kèm theo để chứng minh tính hợp lệ của hàng hoá theo quy định tại Bảng dữ liệu. Theo đó, việc đánh giá, làm rõ hồ sơ dự thầu (trong đó có nội dung xuất xứ hàng hóa) thực hiện theo quy định nêu trên và thuộc trách nhiệm của tổ chuyên gia, bên mời thầu. Trường hợp sau quá trình làm rõ, nếu nhà thầu cung cấp đủ tài liệu chứng minh thiết bị đã đề xuất trong hồ sơ dự thầu có xuất xứ từ Italia thì yếu tố xuất xứ hàng hóa này sẽ được xem xét, đánh giá theo quy định của hồ sơ mời thầu. Trường hợp nhà thầu tự động đổi hàng hóa đã chào sang hàng hóa khác (của nhà sản xuất khác) thì văn bản làm rõ của nhà thầu không được xem xét, đánh giá.
Kính chào quý bộ: Tôi có câu hỏi xin được hỏi như sau. Theo TT39/2016/TT-BTC ngày 01/03/2016 Sửa đổi bổ sung một số điều của TT 161/2012/TT-BTC ngày 02/10/2012 của BTC quy định chế độ kiểm soát thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN tại điều 9 " Lưu giữ chứng từ tại KBNN" thì các quyết định giao dự toán của cấp có thẩm quyền giao cho các đơn vị SDNS thì đơn vị phải gửi cho KBNN bản chính hoặc bản sao y của đơn vị. Song thực tế ở huyện tôi hiện nay các quyết định bổ sung dự toán của cấp có thẩm quyền giao đều được gửi cho KBNN và đơn vị SDNS thông qua văn bản điện tử có chữ ký số, do đó khi yêu cầu bản chính thì đơn vị trả lời không có nên việc sao y cũng gặp khó khăn vậy Quý bộ cho hỏi đơn vị gửi quyết định có chữ số có chấp nhận được không. Xin chân thành cảm ơn/./
– Căn cứ các quy định tại Luật giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 ngày 29/11/2005 thì: + Tại Điều 13 (Thông điệp dữ liệu có giá trị như bản gốc), Chương 2 quy định thông điệp dữ liệu có giá trị như bản gốc khi đáp ứng được các điều kiện sau đây: “1. Nội dung của thông điệp dữ liệu được bảo đảm toàn vẹn kể từ khi được khởi tạo lần đầu tiên dưới dạng một thông điệp dữ liệu hoàn chỉnh. Nội dung của thông điệp dữ liệu được xem là toàn vẹn khi nội dung đó chưa bị thay đổi, trừ những thay đổi về hình thức phát sinh trong quá trình gửi, lưu trữ hoặc hiển thị thông điệp dữ liệu; 2. Nội dung của thông điệp dữ liệu có thể truy cập và sử dụng được dưới dạng hoàn chỉnh khi cần thiết”. + Tại Điều 24 (Giá trị pháp lý của chữ ký điện tử), Chương 3 quy định: “1. Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần có chữ ký thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu chữ ký điện tử được sử dụng để ký thông điệp dữ liệu đó đáp ứng các điều kiện sau đây: a) Phương pháp tạo chữ ký điện tử cho phép xác minh được người ký và chứng tỏ được sự chấp thuận của người ký đối với nội dung thông điệp dữ liệu; b) Phương pháp đó là đủ tin cậy và phù hợp với mục đích mà theo đó thông điệp dữ liệu được tạo ra và gửi đi. 2. Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần được đóng dấu của cơ quan, tổ chức thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bởi chữ ký điện tử của cơ quan, tổ chức đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 22 của Luật này và chữ ký điện tử đó có chứng thực. 3. Chính phủ quy định cụ thể việc quản lý và sử dụng chữ ký điện tử của cơ quan, tổ chức”. – Theo quy định tại Nghị định số 165/2018/NĐ-CP ngày 24/12/2018 của Chính phủ về giao dịch điện tử trong hoạt động[...]