TIN NỔI BẬT
CPA VIETNAM Chúc Mừng Ngày Doanh nhân Việt Nam 13/10Nhiều điểm mới trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH Việt NamCông tác kế toán cấp xã: Giải đáp về vị trí việc làm trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấpCơ hội và thách thức khi doanh nghiệp Việt bước vào sân chơi IFRSHành trình đưa Luật Chứng khoán mới từ nghị trường đến thực tiễnBảo hiểm xã hội Việt Nam: Thích ứng với mô hình chính quyền hai cấp để hoạt động hiệu quả hơnChuyển đổi số là “chìa khóa” nâng tầm lĩnh vực Tài chính Việt NamTín dụng hết 9 tháng đã tăng hơn 13%, dự kiến cả năm tăng 19-20%Thận trọng, minh bạch trong giai đoạn thí điểm tài sản sốBổ nhiệm kế toán trưởng, phụ trách kế toán cấp xã trước ngày 31/12Lời Chúc Tết Trung ThuHỗ trợ tối đa hộ kinh doanh trong lộ trình bỏ thuế khoán, áp dụng hóa đơn điện tửTuyển Dụng Kỹ Sư Xây DựngNgân hàng vận hành bằng AI: Cuộc cách mạng đang bắt đầuĐịnh vị vốn dài hạn - thước đo năng lực của ngành Quỹ Việt NamỔn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng quý IV/2025: Khuyến nghị chính sách trọng tâm cho quý cuối nămTuyển dụng Phó Tổng Giám đốcTuyển Dụng Trưởng nhóm Kiểm toán viênTuyển Dụng Thẩm định viênTuyển Dụng Trợ lý Kiểm toán (Làm việc tại TP. Hà Nội)

Kính gửi: Bộ Tài Chính, Theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 9 của Thông tư 121/2020/TT-BTC thì: "1. Công ty chứng khoán hoạt động theo mô hình quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 137 Luật Doanh nghiệp phải đảm bảo thực hiện các quy định dưới đây: …b) Ban kiểm soát phải xây dựng quy trình kiểm soát và phải được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng thành viên thông qua;". Tuy nhiên, mô hình doanh nghiệp theo Quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 137 Luật Doanh nghiệp là Công ty cổ phần. Quý cơ quan cho tôi hỏi: Câu 1: Việc Điểm b Khoản 1 Điều 9 Thông tư 121/2020/TT-BTC quy định Hội đồng thành viên thông qua quy trình kiểm soát của Ban Kiểm soát được hiểu như thế nào – vì Công ty cổ phần không tồn tại Hội đồng thành viên? Câu 2: Đối với công ty TNHH một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu, theo quy định tại Khoản 2 Điều 79 Luật Doanh nghiệp 59/2020/QH14 quy định: "2. Đối với công ty có chủ sở hữu công ty là doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 88 của Luật này thì phải thành lập Ban kiểm soát; trường hợp khác do công ty quyết định. Cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc, tiêu chuẩn, điều kiện, miễn nhiệm, bãi nhiệm, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Ban kiểm soát, Kiểm soát viên thực hiện tương ứng theo quy định tại Điều 65 của Luật này". Như vậy, việc lập Ban Kiểm soát đối với Công ty TNHH một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu là quyền của công ty (có thể lập hoặc không lập). Trường hợp lập, thì Chủ sở hữu là cơ quan có quyền lập Ban Kiểm soát để giám sát hoạt động từ cấp Hội đồng thành viên trở xuống. Như vậy, quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 9 của Thông tư 121/2020/TT-BTC về việc Ban Kiểm soát phải trình Hội đồng thành viên thông qua quy trình kiểm soát có phù hợp hay không, khi Ban Kiểm soát thực hiện kiểm tra và là cấp trên của Hội đồng thành viên, nhưng quy trình kiểm soát lại do Hội đồng thành viên phê duyệt? Kính mong sự phản hồi của Quý cơ quan. Trân trọng cảm ơn.

Nội dung trả lời Câu hỏi 1: Theo Điều 71 Luật Chứng khoán, công ty chứng khoán có thể được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty TNHH theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 9 Thông tư 121/2020/TT-BTC: Công ty chứng khoán hoạt động theo mô hình quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 137 Luật Doanh nghiệp phải đảm bảo thực hiện các quy định dưới đây: b) Ban kiểm soát phải xây dựng quy trình kiểm soát và phải được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng thành viên thông qua; Đối với công ty chứng khoán là công ty cổ phần hoạt động theo mô hình tại Điểm a Khoản 1 Điều 137 Luật Doanh nghiệp mà có Ban kiểm soát thì Ban kiểm soát phải xây dựng quy trình kiểm soát và phải được Đại hội đồng cổ đông thông qua. Đối với công ty chứng khoán hoạt động theo mô hình công ty TNHH, Ban kiểm soát phải xây dựng quy trình kiểm soát và phải được Hội đồng thành viên thông qua. Nội dung trả lời câu hỏi 2: Quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 9 của Thông tư 121/2020/TT-BTC về việc Ban kiểm soát phải trình Hội đồng thành viên thông qua quy trình kiểm soát là phù hợp và cần thiết bởi các lý do sau: Quy trình làm việc là tập hợp các công việc, nhiệm vụ được thực hiện theo một thứ tự cố định, nhằm biến đổi các yếu tố đầu vào thành các kết quả đầu ra. Quy trình được lập ra và thống nhất thực hiện là một điều cần thiết cho tác nghiệp của những người tham gia trong quy trình và là công cụ kiểm soát cho các cấp quản lý.  Khoản 2 Điều 79 Luật Doanh nghiệp quy định: Đối với CTCK là công ty TNHH MTV có chủ sở hữu là doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 88 của Luật Doanh nghiệp thì phải thành lập Ban kiểm soát. Cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc, tiêu chuẩn, điều kiện, miễn nhiệm, bãi nhiệm, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Ban kiểm soát, Kiểm soát viên thực hiện tương ứng theo quy định tại Điều 65 của Luật[...]

Kính thưa Bộ Tài Chính – Tổng cục thuế, tôi có 1 vướng mắc về thuế GTGT theo nghị định 15/2022 xin được nhờ quý đơn vị chỉ dẫn giúp: đơn vị tôi là đơn vị thực hiện dịch vụ sửa chữa ô tô. Ngày 09/12/2021 đơn vị có tiếp nhận 1 chiếc xe ô tô bị tai nạn vào sửa chữa, chiếc xe này đã được mua bảo hiểm vật chất. Vì vậy ngày 10/12/2021, đơn vị tôi đã gửi báo giá chi phí sửa chữa cho khách hàng, đồng thời gửi sang đơn vị bảo hiểm tại Quảng Ninh và đơn vị tại Quảng Ninh phải trình lên Tổng Công Ty bảo hiểm vì số tiền bồi thường thiệt hại vượt quá thẩm quyền. Ngày 24/12/2021, Tổng Công Ty bảo hiểm đã duyệt chi phí sửa chữa lần 1 với số tiền trên 400 triệu đồng sau thuế GTGT (thuế GTGT thời điểm này là 10%). Ngày 16/02/2022, Tổng Công Ty bảo hiểm phê duyệt tiếp 1 số hạng mục còn treo trên báo giá bên tôi đã gửi sang bảo hiểm ngày 10/12/2022 gần 20 triệu đồng sau thuế GTGT (theo báo giá là thuế để 10%). Đến tháng 5/2022, xe đã sửa xong, 2 bên đã ký nghiệm thu bàn giao xe và đơn vị bảo hiểm báo đã hoàn thiện hồ sợ giấy tờ, đơn vị tôi đã xuất hoá đơn cho bảo hiểm đủ tổng số tiền 2 lần mà đơn vị bảo hiểm đã duyệt với thuế suất 10% vì cho rằng xe này vào sửa chữa trước thời điểm nghị định 15/2022 về giảm thuế GTGT có hiệu lực. Nhưng khi hồ sơ hoá đơn do đơn vị bảo hiểm tại Quảng Ninh tiếp nhận và chuyển lên Tổng Công Ty bảo hiểm đến nay đã hơn 3 tháng vẫn chưa thanh toán khoản tiền đó cho đơn vị tôi. Khi bên tôi đòi nợ thì được biết do trên Tổng Công Ty bảo hiểm không chấp nhận hoá đơn đã xuất có thuế GTGT 10% và yêu cầu phải xuất hoá đơn được giảm thuế GTGT theo nghị định 15/2022 có hiệu lực từ ngày 01/02/2022. Qua đây tôi xin hỏi Bộ Tài Chính – Tổng Cục Thuế trong trường hợp này đơn vị tôi xuất hoá đơn theo thuế suất GTGT 10% có đúng không, và có được xuất hoá đơn theo quy định về thuế GTGT tại nghị định 15/2022 hay không ? Rất mong câu trả lời sớm từ Bộ Tài Chính – Tổng Cục thuế để đơn vị tôi được tháo gỡ vướng mắc, hiểu rõ và thực hiện đúng nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật thuế đề ra. Tôi xin trân trọng cảm ơn./

Tại khoản 1, 2 Điều 9 Nghị định 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định về thời điểm lập hóa đơn: “1. Thời điểm lập hóa đơn đối với bán hàng hóa (bao gồm cả bán tài sản nhà nước, tài sản tịch thu, sung quỹ nhà nước và bán hàng dự trữ quốc gia) là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hóa cho người mua, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. 2. Thời điểm lập hóa đơn đối với cung cấp dịch vụ là thời điểm hoàn thành việc cung cấp dịch vụ không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. Trường hợp người cung cấp dịch vụ có thu tiền trước hoặc trong khi cung cấp dịch vụ thì thời điểm lập hóa đơn là thời điểm thu tiền (không bao gồm trường hợp thu tiền đặt cọc hoặc tạm ứng để đảm bảo thực hiện hợp đồng cung cấp các dịch vụ: kế toán, kiểm toán, tư vấn tài chính, thuế; thẩm định giá; khảo sát, thiết kế kỹ thuật; tư vấn giám sát; lập dự án đầu tư xây dựng).” Căn cứ Nghị định số 15/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ quy định chính sách miễn, giảm thuế theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội: + Tại Điều 1 quy định về về giảm thuế giá trị gia tăng: “Điều 1. Giảm thuế giá trị gia tăng 1. Giảm thuế giá trị gia tăng đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10%, trừ nhóm hàng hóa, dịch vụ sau: a) Viễn thông, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, kim loại và sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, sản phẩm khai khoáng (không kể khai thác than), than cốc, dầu mỏ tinh chế, sản phẩm hoá chất. Chi tiết tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định này. b) Sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Chi tiết tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định này. c) Công nghệ thông tin theo pháp luật về công nghệ thông tin. Chi tiết tại[...]

Kính gửi Bộ Tài chính Theo quy định tại Khoản 1, Điều 4, Thông tư 108/2021/TT-BTC “1. Đối với các khoản thu, chi từ hoạt động tư vấn, quản lý dự án của dự án đầu tư công được giao quản lý, các khoản thu phí theo pháp luật về phí, lệ phí và các khoản khác của ngân sách nhà nước (nếu có) theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý nợ công và pháp luật có liên quan: Chủ đầu tư, BQLDA mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước nơi thuận tiện giao dịch để quản lý”. Trường hợp BQLDA chuyên ngành, Ban khu vực được giao quản lý dự án (Không được giao làm Chủ đầu tư dự án) theo Khoản 1, Điều 62 của Luật Xây dựng. Vậy BQLDA chuyên ngành, ban khu vực có phải mở tài khoản riêng tại Kho bạc Nhà nước cho hoạt động tư vấn quản lý dự án này không? Hay sử dụng chung vào tài khoản 3731 “tiền gửi quản lý dự án của các dự án được giao làm Chủ đầu tư”? Có áp dụng vào Khoản 2, Điều 4 Thông tư 108/2021/TT-BTC mở tài khoản tại Ngân hàng thương mại để quản lý thu, chi ? Hiện nay KBNN Bắc Ninh đang hướng dẫn sử dụng tài khoản 3731 “tiền gửi quản lý dự án của các dự án được giao làm Chủ đầu tư”. Tôi thấy như vậy là không hợp lý, vì đây là Hợp đồng tư vấn quản lý dự án được ký kết giữa hai bên và BQLDA chuyên ngành, ban khu vực phải hạch toán Doanh thu – chi phí như các hợp đồng tư vấn dịch vụ khác, Hơn nữa không phù hợp với các nghiệp vụ hạch toán về doanh thu – chi phí quy định tại Thông tư 79/2019/TT-BTC hướng dẫn chế độ kế toán áp dụng cho BQLDA sử dụng vốn đầu tư công.

– Nghị định số 15/2021/NĐ-CP  ngày 03/3/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số nội dung về quản lý dự án đầu tư xây dựng quy định:           + Tại Khoản 1 Điều 20: “a) Người quyết định đầu tư quyết định áp dụng hình thức Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành, Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng khu vực (sau đây gọi là Ban quản lý dự án chuyên ngành, Ban quản lý dự án khu vực) trên cơ sở số lượng, tiến độ thực hiện các dự án cùng một chuyên ngành, cùng một hướng tuyến, trong một khu vực hành chính hoặc theo yêu cầu của nhà tài trợ vốn; b) Trong trường hợp không áp dụng hình thức quản lý dự án theo điểm a khoản này, người quyết định đầu tư quyết định áp dụng hình thức Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng một dự án hoặc chủ đầu tư tổ chức thực hiện quản lý dự án hoặc thuê tư vấn quản lý dự án. ” + Tại Điều 21: Tại điểm a Khoản 2:“Người đứng đầu cơ quan trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện thành lập Ban quản lý dự án chuyên ngành, Ban quản lý dự án khu vực để giao làm chủ đầu tư một số dự án và thực hiện quản lý dự án đồng thời nhiều dự án sử dụng vốn đầu tư công thuộc thẩm quyền quản lý của mình…” Tại Khoản 4:“Ban quản lý dự án chuyên ngành, Ban quản lý dự án khu vực được thực hiện tư vấn quản lý dự án cho các dự án khác hoặc thực hiện một số công việc tư vấn trên cơ sở bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ quản lý dự án được giao và đáp ứng yêu cầu về điều kiện năng lực theo quy định khi thực hiện công việc tư vấn.” – Tại Điều 4 Thông tư số 108/2021/TT-BTC ngày 8/12/2021 của Bộ Tài chính quy định về quản lý, sử dụng các khoản thu từ hoạt động tư vấn, quản lý dự án của các chủ đầu tư, ban quản lý dự án sử dụng vốn đầu tư công quy định:             “1. Đối với các khoản thu, chi từ hoạt động tư vấn, quản lý dự án của dự án đầu tư công được giao quản[...]

Kính gửi Quý Bộ. Tôi hiện là công chức đang giữ ngạch kiểm tra viên thuế và đáp ứng đầy đủ điều kiện để dự thi nâng ngạch công chức lên kiểm tra viên chính thuế. Tuy nhiên, bản thân tôi còn vướng mắc về tiêu chuẩn trình độ đào tạo để dự thi, cụ thể:

Căn cứ quy định tại Khoản 4 Điều 10 Thông tư 29/2022/TT-BTC quy định như sau:

“a) Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên với chuyên ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu của vị trí việc làm;

b) Có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước đối với công chức ngạch chuyên viên chính và tương đương hoặc có bằng cao cấp lý luận chính trị – hành chính. Năm 2022 tôi đã hoàn thành chứng chỉ chuyên viên chính theo quyết định 2641/QĐ-BNV ngày 14/12/2018 của bộ nội vụ thực hiện theo Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức”.

Mặt khác, căn cứ vào Khoản 3 Điều 2 Nghị định số 89/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức:

“3.Cán bộ, công chức, viên chức có chứng chỉ hoàn thành các chương trình bồi dưỡng quy định tại khoản 3, khoản 4, khoản 5, khoản 6, khoản 7 Điều 17 Nghị định số 101/2017/NĐ-CP hoặc đã được bổ nhiệm vào chức vụ, ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức trước ngày 30 tháng 6 năm 2022 thì không phải tham gia các chương trình bồi dưỡng tương ứng theo quy định của Nghị định này”

Vậy, xét điều kiện dự thi nâng ngạch lên kiểm tra viên chính tôi đã có bằng tốt nghiệp đại học và chứng chỉ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính vậy tôi có phải học chương trình bồi dưỡng quản lý nhà nước đối với công chức chuyên viên và tương đương theo Quyết định 421/QĐ-BNV ngày 02/6/2022 nữa không? Chứng chỉ bồi dưỡng ngạch chuyên viên chính có đủ điều kiện để dự thi nâng ngạch lên kiểm tra viên chính thuế theo Thông tư 29/2022/TT-BTC không?

Theo tiết b điểm 4 Điều 11 Thông tư số 29/TT-BTC ngày 03/6/2022 về việc quy định mã số tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và xếp lương đối với các ngạch công chức chuyên ngành kế toán, thuế, hải quan, dự trữ quy định :“b) Có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước đối với công chức ngạch chuyên viên và tương đương” và điểm 4 Điều 25 Thông tư số 29/TT-BTC ngày 03/6/2022 quy định: “4. Công chức, viên chức chuyên ngành kế toán, thuế, hải quan, dự trữ có chứng chỉ hoàn thành các chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch trước ngày 30 tháng 6 năm 2022 thì không phải tham gia các chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước hoặc bồi dưỡng theo chức danh nghề nghiệp tương ứng theo quy định tại Thông tư này.” Theo đó, để dự thi nâng ngạch từ Kiểm tra viên thuế lên Kiểm tra viên chính thuế, ngoài đáp ứng các điều kiện khác theo quy định, độc giả phải có chứng chỉ bồi dưỡng ngạch Kiểm tra viên chính thuế cấp trước ngày 30/6/2022 hoặc có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước đối với công chức ngạch chuyên viên và tương đương.

Kính hỏi Quý Bộ về việc Xuất hóa đơn điều chỉnh tăng/giảm doanh thu cho nhiều hóa đơn. Kính gửi: Bộ Tài chính Công ty TNHH Bao bì Nước giải Khát Crown Đà Nẵng Mã số thuế: 0401487912 Doanh nghiệp có vướng về việc xuất hóa đơn tăng/giảm doanh thu cho nhiều hóa đơn như sau: Do đặc thù của doanh nghiệp là công ty sản xuất lon nhôm cho nước giải khát nên giá bán sẽ phụ thuộc rất nhiều và nguyên liệu nhôm đầu vào. Hiện tại do giá nhôm đầu vào trên thế giới biến động rất mạnh nên doanh nghiệp có thỏa thuận với khách hàng sẽ cố định một giá dùng để giao hàng và xuất hóa đơn. Cuối quý hoặc cuối năm sẽ thực hiện điều chỉnh tăng/giảm doanh thu theo giá nhôm thực tế của thế giới. Vì số lượng hóa đơn rất nhiều gần (hơn 100 hóa đơn mỗi tháng) nên doanh nghiệp muốn xuất một hóa đơn điều chỉnh tăng/giảm kèm bảng kê cho toàn bộ hóa đơn đã xuất trong kỳ. Doanh nghiệp đã tham khảo các thông tư và quy định hiện hành nhưng chưa thấy bất kỳ hướng dẫn nào về việc này. Vì vậy, Kính mong Bộ Tài chính hướng dẫn giải đáp vấn đề này giúp doanh nghiệp. Doanh nghiệp Xin chân thành Cảm ơn.

Căn cứ các quy định tại: – Khoản 2.b Điều 19 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định về xử lý hóa đơn có sai sót đối với trường hợp có sai: mã số thuế; sai sót về số tiền ghi trên hóa đơn, sai về thuế suất, tiền thuế hoặc hàng hóa ghi trên hóa đơn không đúng quy cách, chất lượng; – Khoản 1.a Điều 7 Thông tư số 78/2021/TT-BTC ngày 17/9/2021 của Bộ Tài chính hướng dẫn xử lý hóa đơn điện tử đã lập có sai sót phải cấp lại mã của cơ quan thuế hoặc hóa đơn điện tử có sai sót. Theo đó, trường hợp hóa đơn điện tử đã lập có sai sót phải cấp lại mã của cơ quan thuế hoặc hóa đơn điện tử có sai sót cần xử lý theo hình thức điều chỉnh hoặc thay thế theo quy định tại Điều 19 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP thì người bán được lựa chọn sử dụng Mẫu số 04/SS-HĐĐT tại Phụ lục IA ban hành kèm theo Nghị định số 123/2020/NĐ-CP để thông báo việc điều chỉnh cho từng hóa đơn có sai sót hoặc thông báo việc điều chỉnh cho nhiều hóa đơn điện tử có sai sót và gửi thông báo theo Mẫu số 04/SS-HĐĐT đến cơ quan thuế bất cứ thời gian nào nhưng chậm nhất là ngày cuối cùng của kỳ kê khai thuế giá trị gia tăng phát sinh hóa đơn điện tử điều chỉnh.  Đề nghị Công ty THHH Bao bì nước giải khát Crown Đà Nẵng nghiên cứu các quy định, hướng dẫn nêu trên và tình hình thực tế hoạt động của Công ty để áp dụng phù hợp  Cục Thuế thành phố Đà Nẵng trả lời để độc giả Võ An Khang được biết. Trường hợp cần trao đổi thêm, đề nghị liên hệ trực tiếp với Cục Thuế (phòng Tuyên truyền – Hỗ trợ) để được hướng dẫn hoặc tham khảo thêm thông tin về chính sách thuế tại Trang Thông tin điện tử của Cục Thuế thành phố Đà Nẵng tại địa chỉ: https://danang.gdt.gov.vn./.

Kính gửi Bộ Tài Chính-Tổng cục thuế, Công ty chúng tôi hoạt động trong lĩnh vực thương mại, vừa có hoạt động bán hàng nội địa, vừa có hoạt động bán hàng xuất khẩu. Chúng tôi có phát sinh số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và không hạch toán riêng được hóa đơn đầu vào phục vụ cho hàng hóa xuất khẩu nên khi làm hồ sơ hoàn thuế GTGT, Công ty chúng tôi xác định dựa trên tỷ lệ doanh thu xuất khẩu theo hướng dẫn tại Điều 2, Thông tư số 25/2018/TT-BTC ngày 16/3/2018 của Bộ Tài chính. Sau khi hoàn thuế GTGT lần 1, Công ty có phát sinh chỉ tiêu "Số thuế GTGT còn được khấu trừ chuyển kỳ sau" do bị khống chế 10% doanh thu xuất khẩu của kỳ hoàn 1. Như vậy khi thực hiện hoàn thuế tiếp lần 2, chúng tôi có được hoàn thuế số thuế GTGT chưa được hoàn lần 1 không? Nếu không, số thuế GTGT này sẽ được xử lý như thế nào? Mong Bộ Tài Chính-Tổng cục thuế hướng dẫn chúng tôi xử lý vấn đề này. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn.

– Căn cứ Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Luật Thuế GTGT và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Thuế GTGT. + Tại Điều 16 quy định về điều kiện khấu trừ, hoàn thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu. – Căn cứ Thông tư số 25/2018/TT-BTC ngày 16/3/2018 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số 146/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ và sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014 của Bộ Tài chính, Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính. + Tại Điều 2. Sửa đổi, bổ sung Khoản 4 Điều 18 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính (đã được sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 130/2016/TT-BTC ngày 12/8/2016 của Bộ Tài chính) như sau: “4. Hoàn thuế đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu a) Cơ sở kinh doanh trong tháng (đối với trường hợp kê khai theo tháng), quý (đối với trường hợp kê khai theo quý) có hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu bao gồm cả trường hợp: Hàng hóa nhập khẩu sau đó xuất khẩu vào khu phi thuế quan; hàng hóa nhập khẩu sau đó xuất khẩu ra nước ngoài, có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ từ 300 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng theo tháng, quý; trường hợp trong tháng, quý số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ chưa đủ 300 triệu đồng thì được khấu trừ vào tháng, quý tiếp theo. Cơ sở kinh doanh trong tháng/quý vừa có hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, vừa có hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ nội địa thì cơ sở kinh doanh phải hạch toán riêng số thuế GTGT đầu vào sử dụng cho sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu. Trường hợp không hạch toán riêng được thì số thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu được xác định theo tỷ lệ giữa doanh thu của hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu trên tổng doanh thu hàng hóa, dịch vụ của các kỳ khai thuế giá trị gia tăng tính từ kỳ khai thuế tiếp theo kỳ hoàn thuế[...]