Kính gửi: Bộ tài chính. Tôi là Lê Xuân Thọ; Chức vụ: Giám đốc Công ty TNHH xây dựng dân dụng Nam Hải, địa chỉ: xóm Cây Xanh, xã Quyết Thắng, tp Thái Nguyên. Điện thoại 0912003240. Email: namhaitn2013@gmail.com Tôi xin hỏi Bộ Tài Chính một việc như sau: Tháng 12 năm 2017 đơn vị tôi ký hợp đồng thi công xây dựng công trình vốn ngân sách Nhà nước, theo đó Công trình có khối lượng Đào nền 35.785,1m3, đắp nền 52.156,29m3 (khối lượng đào và đắp tại chỗ cùng một gói thầu); phần đất đắp còn thiếu 16.398,19m3 phải khai thác ngoài, khối lượng khai thác ngoài trên chúng tôi đã kê khai thuế tài nguyên và nộp phí môi trường theo quy định hiện hành. Tuy nhiên nay Thanh tra Sở Tài chính tỉnh Thái Nguyên đã viện dẫn nghị định 164/2016/NĐ-NP ngày 24/12/2016 của Chính phủ để truy thu phí môi trường đối với khối lượng đào 35.785,1m3 tại chỗ như trên. Việc Sở tài chính Thái Nguyên thu phí bảo vệ môi trường đối với đất đào tại chỗ trong gói thầu như trên đúng hay sai. Đề nghị Bộ tài chính sớm hồi âm để đơn vị chúng tôi có cơ sở làm việc với đoàn Thanh tra. Xin cám ơn./.
Bộ Tài chính có ý kiến như sau: – Tại khoản 3 Điều 4 Nghị định số 164/2016/NĐ-CP ngày 24/12/2016 của Chính phủ quy định về phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản quy định: Mức phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản tận thu bằng 60% mức phí của loại khoáng sản tương ứng quy định tại Biểu khung mức phí ban hành kèm theo Nghị định này. – Tại khoản 7 Điều 5 Nghị định số 164/2016-NĐ-CP quy định trường hợp không phải nộp phí bảo vệ môi trường: Trường hợp tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường trong diện tích đất ở thuộc quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân để xây dựng các công trình của hộ gia đình, cá nhân trong diện tích đó và trường hợp đất, đá khai thác để san lấp, xây dựng công trình an ninh, quân sự, phòng chống thiên tai, khắc phục, giảm nhẹ thiên tai thì không phải nộp phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản đó. – Tại khoản 1 Điều 7 Nghị định số 164/2016/NĐ-CP quy định các trường hợp được áp dụng mức phí bảo vệ môi trường đối với khoáng sản tận thu như sau: a) Hoạt động khai thác khoáng sản còn lại ở bãi thải của mỏ đã có quyết định đóng cửa mỏ; b) Hoạt động sản xuất, kinh doanh của tổ chức, cá nhân không nhằm mục đích khai thác khoáng sản, nhưng có chức năng nhiệm vụ hoặc có đăng ký kinh doanh, trong quá trình hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ hoặc theo chuyên ngành đã đăng ký mà thu được khoáng sản. Căn cứ quy định nêu trên, trường hợp tổ chức, cá nhân (không được cấp giấy phép khai thác khoáng sản) thực hiện xây dựng công trình thu được khoáng sản, không thuộc đối tượng quy định tại khoản 7 Điều 5 Nghị định số 164/2016-NĐ-CP, phải nộp phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản với mức phí bằng 60% của khoáng sản cùng loại.
Kính gửi: Bộ Tài Chính, Tổng Cục Thuế. Tôi có 1 vướng mắc kính đề nghị Quý cơ quan hướng dẫn, giải đáp. Công ty chúng tôi kinh doanh ô tô mới – là đại lý cho nhà phân phối ô tô tại Việt Nam (sau đây gọi tắc là “Nhà máy”) Hàng tháng Công ty chúng tôi thực hiện bán hàng với chương trình bán hàng Nhà máy đưa ra. Ví dụ: tháng 6 Nhà máy đưa ra chương trình bán hàng là khuyến mãi giảm giá bán xe cho dòng xe A, cụ thể: – Giá khuyến nghị bán lẻ xe A: 940.000.000 đồng (đã bao gồm 10% thuế giá trị gia tăng) – Chương trình khuyến mãi bán hàng: Giảm giá bán cho khách hàng 40.000.000 đồng/xe (đã bao gồm 10% thuế giá trị gia tăng). Điều kiện Nhà máy đưa ra: Công ty chúng tôi chủ động khuyến mãi giảm giá cho khách hàng trước, đến cuối tháng 6 hoặc đến khi hết chương trình Nhà máy hỗ trợ lại cho Công ty chúng tôi 40.000.000 đồng/xe (đã bao gồm 10% thuế giá trị gia tăng ) cho xe A đã bán ra – Thực hiện: Khi bán xe Công ty chúng tôi xuất hóa đơn bán xe cho khách với giá xuất hóa đơn là 900.000.000 đồng (đã bao gồm 10% thuế giá trị gia tăng) (giảm trực tiếp trên giá bán 40.000.000 đồng theo chương trình của Nhà máy). Khi kết thúc chương trình Công ty chúng tôi xuất hóa đơn cho Nhà máy nội dung : Hỗ trợ bán hàng theo chương trình khuyến mãi bán hàng, số tiền xuất hóa đơn 40.000.000 đồng (đã bao gồm 10% thuế giá trị gia tăng) Như vậy, Chúng tôi có được xác định đây là hoạt động hỗ trợ khách hàng thông qua đại lý của Nhà máy hay không? và 40.000.000 đồng Công ty chúng tôi xuất hóa đơn cho Nhà máy có được tính cộng vào Doanh thu để tính Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh hay không? Và bản chất khoảng hỗ trợ chúng tôi nhận được từ Nhà máy có phải là Doanh thu của xe A này hay không? Rất mong nhận được phản hồi của Quý cơ quan. Trân trọng.
Căn cứ quy định tại: – Khoản 1 Điều 5 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính quy định các trường hợp không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT: “1. Tổ chức, cá nhân nhận các khoản thu về bồi thường bằng tiền (bao gồm cả tiền bồi thường về đất và tài sản trên đất khi bị thu hồi đất theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền), tiền thưởng, tiền hỗ trợ, tiền chuyển nhượng quyền phát thải và các khoản thu tài chính khác. Cơ sở kinh doanh khi nhận khoản tiền thu về bồi thường, tiền thưởng, tiền hỗ trợ nhận được, tiền chuyển nhượng quyền phát thải và các khoản thu tài chính khác thì lập chứng từ thu theo quy định. Đối với cơ sở kinh doanh chi tiền, căn cứ mục đích chi để lập chứng từ chi tiền: Trường hợp bồi thường bằng hàng hóa, dịch vụ, cơ sở bồi thường phải lập hóa đơn và kê khai, tính, nộp thuế GTGT như đối với bán hàng hóa, dịch vụ; cơ sở nhận bồi thường kê khai, khấu trừ theo quy định. Trường hợp cơ sở kinh doanh nhận tiền của tổ chức, cá nhân để thực hiện dịch vụ cho tổ chức, cá nhân như sửa chữa, bảo hành, khuyến mại, quảng cáo thì phải kê khai, nộp thuế theo quy định.” – Khoản 5.b Điều 7 Thông tư số 219/2013/TT-BTC hướng dẫn giá tính thuế GTGT đối với hình thức bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, dịch vụ trước đó theo quy định của pháp luật về thương mại; “b) Đối với hình thức bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, dịch vụ trước đó thì giá tính thuế GTGT là giá bán đã giảm áp dụng trong thời gian khuyến mại đã đăng ký hoặc thông báo. Ví dụ 30: Công ty N hoạt động trong lĩnh vực viễn thông, chuyên bán các loại thẻ cào di động. Công ty thực hiện đăng ký khuyến mại theo quy định của pháp luật về thương mại dưới hình thức bán hàng thấp hơn giá bán trước đó cho thời gian từ ngày 1/4/2014 đến hết ngày 20/4/2014, theo đó, giá bán một thẻ cào mệnh giá là 100.000 đồng (đã[...]
Kính gửi Bộ Tài chính! Thông tư số 76/2021/TT-BTC ngày 15/9/2021 của Bộ Tài chính hướng dẫn khoản 1 và khoản 2 Điều 31 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/11/2021. Đề nghị Bộ cho biết kinh phí thực hiện thẩm định, xét duyệt hồ sơ đối tượng bảo trợ xã hội có được áp dụng từ ngày 01/7/2020 không. Mong Bộ Tài chính xem xét và có ý kiến để chúng tôi biết và thực hiện. Xin chân thành cảm ơn!
Khoản 1 Điều 5 Thông tư số 76/2021/TT-BTC ngày 15/9/2021 của Bộ Tài chính hướng dẫn khoản 1 và khoản 2 Điều 31 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội quy định "Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 11 năm 2021. Các chế độ trợ giúp đối với đối tượng bảo trợ xã hội được áp dụng từ ngày 01 tháng 7 năm 2021"; Theo đó, các chế độ trợ giúp đối với đối tượng bảo trợ xã hội như: vật dụng sinh hoạt hàng ngày, đồ dùng học tập, sách giáo khoa đối với đối tượng đang đi học; mức trợ cấp xã hội được áp dụng từ ngày 01/7/2021 là thời điểm Nghị định số 20/2021/NĐ-CP có hiệu lực thi hành để đảm bảo quyền lợi cho đối tượng bảo trợ xã hội. Đối với nội dung rà soát, thẩm định hồ sơ đối tượng bảo trợ xã hội quy định tại điểm a khoản 2 Điều 3 Thông tư số 76/2021/TT-BTC là chế độ hỗ trợ cho cán bộ, công chức thực hiện công tác rà soát, thẩm định hồ sơ; không phải chế độ trợ giúp đối với đối tượng bảo trợ xã hội nên không được áp dụng từ ngày 01/7/2021 mà áp dụng từ ngày Thông tư số 76/2021/TT-BTC có hiệu lực thi hành (ngày 01/11/2021).
Kính gửi Bộ Tài chính, tôi làm kế toán cho doanh nghiệp có thắc mắc muốn hỏi mấy vấn đề như sau: Tôi làm kế toán cho doanh nghiệp về xây dựng, có vấn đề muốn hỏi Bộ Tài chính như sau: Đơn vị chúng tôi đã lập, trình thẩm định hồ sơ quyết toán dự án hoàn thành một số công trình xây dựng thuộc nguồn vốn Nhà nước. Tuy nhiên gặp vướng mắc, công trình có gói thầu thi công xây dựng theo hợp đồng trọn gói. Nhà thầu thi công đúng thiết kế được duyệt nhưng khối lượng thi công khác khối lượng hợp đồng. Trên cơ sở khối lượng thực tế, xác định lại giá trị thực tế gói thầu thi công thì xảy ra 2 trường hợp và lập hồ sơ quyết toán cho từng trường hợp như sau: Trường hợp giá trị thực tế thi công lớn hơn giá trị hợp đồng trọn gói đã ký (đã tính cả khối lượng tăng và giảm), đơn vị tôi làm việc với Chủ đầu tư và thống nhất lập hồ sơ thanh, quyết toán công trình theo giá trị hợp đồng trọn gói. Trường hợp giá trị thực tế thi công nhỏ hơn giá trị hợp đồng trọn gói đã ký (có khối lượng tăng, có khối lượng giảm), đơn vị tôi đề nghị làm việc với Chủ đầu tư, nhà thầu tư vấn thiết kế để xác định trách nhiệm bồi thường của tư vấn thiết kế và thống nhất việc thanh quyết toán theo giá trị công trình. Tuy nhiên, Phòng tài chính kế hoạch huyện (cơ quan thẩm tra quyết toán) bóc tách, tính toán, triết tính lại khối lượng từng đầu mục công việc của dự toán được duyệt so với thiết kế được duyệt và chỉ chấp nhận phần giá trị khối lượng giảm (khối lượng đầu mục công việc do trong quá trình cơ quan thẩm định tính toán sai), không chấp nhận phần giá trị khối lượng tăng (khối lượng đầu mục công việc do trong quá trình cơ quan thẩm định tính toán thiếu). Tại Điểm c, Khoản 3, Điều 6 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP quy định, “các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan kiểm soát, cấp phát, cho vay vốn, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và các cơ quan khác có liên quan phải căn cứ vào nội dung hợp đồng xây dựng có hiệu lực để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định, không được xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng”. Vậy xin hỏi Bộ Tài chính về cách xử lý này của Phòng tài chính kế hoạch có đảm bảo đúng theo quy định không? Có đảm bảo quyền và lợi ích của các đơn vị không? Tại điểm a, Khoản 1, Điều 14, Thông tư 10/2020/TT-BTC ngày 20/01/2020 quy định về Thẩm tra chi phí đầu tư: “Thẩm tra tính tuân thủ các quy định về hợp đồng xây dựng và quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu của cấp có thẩm quyền; hình thức giá hợp đồng ghi trong từng hợp đồng xây dựng (không phân biệt hình thức lựa chọn nhà thầu) là căn cứ để thẩm tra. Kiểm tra việc tổng hợp số liệu các thành phần chi phí và các khoản mục do chủ đầu tư lập trong báo cáo quyết toán. Trường hợp cần thiết, cơ quan chủ trì thẩm tra quyết toán kiểm tra hồ sơ hoàn công để xác định khối lượng công việc hoàn thành được nghiệm thu theo quy định.” Xin hỏi Bộ Tài chính quy định các trường hợp như thế nào là “cần thiết”?, bởi tất cả các công trình khi quyết toán, Phòng Tài chính kế hoạch huyện đều bóc tách, tính toán, triết tính lại khối lượng từng đầu mục công việc của dự toán được duyệt so với thiết kế được duyệt. Rất mong nhận được ý kiến phản hồi sơm của Bộ Tài chính. Tôi xin trân trọng cảm ơn! 06/9/2021.
1. Tại điểm a, khoản 3, Điều 6 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP ngày 22/4/2015 của Chính phủ quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng quy định “hợp đồng xây dựng có hiệu lực là cơ sở pháp lý cao nhất mà bên giao thầu, bên nhận thầu và các bên liên quan có nghĩa vụ thực hiện.” 2. Thông tư 10/2020/TT-BTC ngày 20/02/2020 của Bộ Tài chính quy định về quyết toán dự án hoàn thành sử dụng nguồn vốn Nhà nước là Thông tư có hiệu lực tại thời điểm chủ đầu tư nộp hồ sơ quyết toán và thời điểm cơ quan thẩm tra thực hiện thẩm tra quyết toán dự án hoàn thành quy định như sau: 2.1. Về chi phí được quyết toán: Tại Điều 3 quy định: Chi phí đầu tư được quyết toán là toàn bộ chi phí hợp pháp thực hiện trong quá trình đầu tư để đưa dự án vào khai thác, sử dụng. Chi phí hợp pháp là toàn bộ các khoản chi phí thực hiện trong phạm vi dự án, dự toán được duyệt và hợp đồng đã ký kết phù hợp với quy định của pháp luật (đối với những công việc thực hiện theo hợp đồng) kể cả phần điều chỉnh, bổ sung được duyệt theo quy định và đúng thẩm quyền. Chi phí đầu tư được quyết toán phải nằm trong giới hạn tổng mức đầu tư được duyệt hoặc được điều chỉnh, bổ sung theo quy định của pháp luật. 2.2 Về nguyên tắc thẩm tra: Tại điểm a, khoản 1, Điều 14 quy định: Trường hợp cần thiết, cơ quan chủ trì thẩm tra quyết toán kiểm tra hồ sơ hoàn công để xác định khối lượng công việc hoàn thành được nghiệm thu theo quy định”. (Hồ sơ hoàn công là một tài liệu bắt buộc của hồ sơ quyết toán hợp đồng xây dựng quy định tại Điều 22 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP ngày 22/4/2015 của Chính phủ). Bộ Tài chính không quy định cụ thể các trường hợp cần thiết, căn cứ từng hồ sơ quyết toán cụ thể, cơ quan chủ trì thẩm tra quyết toán kiểm tra hồ sơ hoàn công để xác định khối lượng công việc hoàn thành được nghiệm thu theo quy định. 2.3 Về thẩm tra chi phí đầu tư: – Tại điểm b[...]
Kính gửi Bộ Tài chính, Tôi, là người nộp thuế, tuy nhiên khi thực hiện việc đóng thuế TNCN theo luật Quản lý thuế và các thông tư hướng dẫn không khỏi bối rối vì không biết thực hiện theo quy định nào. Trường hợp cụ thể của tôi như sau: Năm 2020 tôi được công ty cử đi đào tạo tại Nhật Bản, tôi nhận 2 nguồn thu nhập 1 từ Nhật và 1 từ Việt Nam, khi làm hồ sơ quyết toán thuế TNCN, cục thuế địa phương đã xác nhận tôi đã xác định sai tình trạng cư trú tại Việt Nam năm 2020 cho mục đích tính thuế, xác định đúng thì tôi thuộc diện không cư trú tại Việt Nam năm 2020 và phần thu nhập phát sinh tại Việt Nam sẽ tính thuế theo biểu thuế suất toàn phần (20%). Cục Thuế địa phương yêu cầu tôi như sau: 1. Đối với phần thuế khi xác định lại tình trạng cư trú từ cư trú thành không cư trú (20%): tôi phải nộp theo đúng quy định mà không được bù trừ. 2. Đối với phần thuế tôi đã kê khai và nộp theo quý sẽ được hoàn trả lại theo quy định tại điều 33 thông tư 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013, tức là sau 6 tháng tính từ ngày nộp thừa, nếu không phát sinh thêm số thuế phải nộp thì được xét hoàn. Số tiền tôi đã kê khai và nộp theo quý theo diện cư trú tổng 4 quý của năm 2020 là rất nhiều đối với thu nhập hiện tại của tôi (do tôi xác định sai tình trạng cư trú tại Việt Nam là cư trú cho mục đích tính thuế nên số thuế phải nộp căn cứ trên thu nhập toàn cầu). Với tình hình dịch bệnh khó khăn như hiện tại, tôi không những không được bù trừ với số thuế phải nộp khi xác định lại tình trạng cư trú mà còn không được hoàn ngay số tiền thuế tôi đã nộp thừa và tôi còn phải chờ đến tận 6 tháng. Tôi có tìm hiểu các quy định của pháp luật về thuế thì thấy như sau: Thông tư 156/2013/TT-BTC đã hết hiệu lực kể từ ngày 1/7/2020: căn cứ quy định tại Khoản 4 Điều 154 của luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 “Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực”, theo đó các Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11, Luật số 21/2012/QH13, Luật số 71/2014/QH13 và Luật số 106/2016/QH13 hết hiệu lực kể từ ngày 01/7/2020 – ngày mà luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 có hiệu lực), như vậy thông tư 156/2013/TT-BTC cũng sẽ hết hiệu lực theo. Căn cứ Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2020 trường hợp của tôi thuộc quy định tại khoản 2 điều 60 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14, tôi sẽ được bù trừ tiền thuế hoặc yêu cầu hoàn trả số tiền thuế nộp thừa, nếu tôi yêu cầu hoàn trả số tiền thuế nộp thừa thì cơ quan quản lý thuế ra quyết định hoàn trả số tiền thuế nộp thừa hoặc có văn bản trả lời nêu rõ lý do không hoàn trả trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu. Vậy kính mong quý Bộ trả lời giúp tôi trường hợp của tôi được áp dụng xử lý theo văn bản nào? và vì sao?, tôi phải thực hiện các bước như thế nào để được hoàn lại số tiền thuế tôi đã nộp thừa vào ngân sách nhà nước. Xin chân thành cảm ơn,
Căn cứ quy định tại: – Khoản 2 Điều 33 Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn về Xử lý số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa. – Khoản 1, khoản 5 Điều 60 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019 quy định về Xử lý số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa. – Công văn số 1938/BTC-TCT ngày 26/02/2021 của Bộ Tài chính hướng dẫn v/v thực hiện Thông tư số 156/2013/TT-BTC và các Thông tư khác. Căn cứ hướng dẫn của Bộ Tài chính tại công văn số 1938/BTC-TCT nêu trên thì các quy định tại Thông tư số 156/2013/TT-BTC (trừ những nội dung đã được quy định cụ thể tại Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 và Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ) vẫn tiếp tục có hiệu lực cho đến khi có văn bản quy phạm pháp luật khác thay thế. Theo đó, hiện tại trường hợp người nộp thuế là cá nhân có số tiền thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đã nộp lớn hơn số tiền thuế TNCN phải nộp thì người nộp thuế có quyền giải quyết số tiền thuế TNCN nộp thừa theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 33 Thông tư số 156/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính.
Xin được hỏi về vấn đề tạm ứng và thanh toán tạm ứng qua KBNN đối với các khoản chi thường xuyên không có hợp đồng tại cơ quan hành chính sử dụng NSNN, cụ thể như sau: Căn cứ Điều 7, khoản 3, điểm a, Thông tư số 62/2020/TT-BTC ngày 22/6/2020 của Bộ Tài chính thì: “Thanh toán tạm ứng: Đơn vị sử dụng ngân sách phải thực hiện thanh toán tạm ứng với KBNN nơi giao dịch ngay sau khi khoản chi tạm ứng đã hoàn thành có đủ hồ sơ, chứng từ thanh toán; cụ thể như sau: a) Đối với các khoản chi không có hợp đồng hoặc khoản chi không phải gửi Hợp đồng đến KBNN, đơn vị sử dụng ngân sách phải thanh toán tạm ứng chậm nhất với KBNN vào ngày cuối cùng tháng kế tiếp tháng tạm ứng” và gạch đầu dòng thứ hai, điểm c “Tất cả các khoản đã tạm ứng (kể cả tạm ứng bằng tiền mặt và bằng chuyển khoản) để chi theo dự toán NSNN đến hết thời gian chỉnh lý quyết toán chưa đủ hồ sơ, thủ tục thanh toán được xử lý theo quy định tại Điều 42 Nghị định số 163/2016/NĐ-CP và Điều 26 Thông tư số 342/2017/TT-BTC”. Đơn vị hiểu là: Ví dụ, ngày 01/7/2021 đơn vị rút tạm ứng tiền mặt về quỹ 10 triệu đồng mục công tác phí, ngày 20/7/2021, phát sinh chi phí công tác phí tại đơn vị là 5 triệu đồng, ngày 30/7/2021, đơn vị lập hồ sơ thanh toán tạm ứng với KBNN 5 triệu, số dư 5 triệu đồng tạm ứng còn lại được để lại tại đơn vị. Căn cứ điểm c, khoản 2, Điều 42, Nghị định 163/2016/NĐ-CP, nếu đến cuối năm, hết thời gian chỉnh lý quyết toán mà chưa chi 5 triệu đồng đã tạm ứng ở mục CTP này thì đơn vị mới phải đem nộp lại KBNN. KBNN hiểu là: trong trường hợp trên, đến ngày 31/8/2021, nếu đơn vị vẫn chưa đủ hồ sơ, thủ tục thanh toán thì phải nộp lại tiền đã tạm ứng, nghĩa là chỉ căn cứ điểm a, của khoản 3, điều 7, TT62 “đơn vị sử dụng ngân sách phải thanh toán tạm ứng chậm nhất với KBNN vào ngày cuối cùng tháng kế tiếp tháng tạm ứng” và hiểu thanh toán ở đây là thanh toán hết toàn bộ số tiền đã tạm ứng. Như vậy, đơn vị hiểu đúng hay KBNN hiểu đúng quy định về tạm ứng và thanh toán tạm ứng tại Thông tư 62/2020/TT-BTC?
-Tiết a Khoản 3 Điều 7 Thông tư số 62/2020/TT-BTC ngày 22/6/2020 của Bộ Tài chính hướng dẫn kiểm soát, thanh toán các khoản chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước quy định về thời hạn thanh toán các khoản tạm ứng. -Gạch đầu dòng (-) thứ 2 Tiết c Khoản 3 Điều 7 Thông tư số 62/2020/TT-BTC ngày 22/6/2020 của Bộ Tài chính quy định về xử lý các khoản tạm ứng hết thời hạn chỉnh lý quyết toán chưa thu hồi. Đối với trường hợp độc giả hỏi: Ngày 01/7/2021 đơn vị rút tạm ứng tiền mặt về quỹ 10 triệu đồng mục công tác phí, ngày 20/7/2021 tại đơn vị phát sinh chi phí công tác phí là 05 triệu đồng; ngày 30/7/2021 đơn vị lập hồ sơ thanh toán tạm ứng với KBNN 05 triệu đồng; số dư còn lại tại đơn vị là 05 triệu đồng, theo quy định tại Tiết a Khoản 3 Điều 7 Thông tư số 62/2020/TT-BTC đơn vị có trách nhiệm làm thủ tục thanh toán tạm ứng với KBNN chậm nhất ngày 30/8/2021.