Tôi có một câu hỏi gửi đến quý Bộ như sau: Thông tư 92/2017/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định " Các công trình có mức vốn dưới 500 triệu đồng: Các cơ quan, đơn vị tổng hợp chung trong báo cáo quyết toán hàng năm theo quy định tại Quyết định số 19/2006/QĐ-BTC ngày 30/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành Chế độ kế toán Hành chính sự nghiệp và Thông tư số 01/2007/TT-BTC ngày 02/01/2007 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn xét duyệt, thẩm định và thông báo quyết toán năm đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ và ngân sách các cấp." Theo tôi hiểu là các công trình sửa chữa, bảo dưỡng, nâng cấp có giá trị dưới 500 triệu thì không thực hiện thẩm tra quyết toán riêng từng công trình mà chỉ thực hiện tổng hợp chung vào báo cáo quyết toán hàng năm. Nhưng hiện tại Phòng tài chính kế hoạch huyện tôi vẫn thực hiện thẩm tra và thu phí thẩm tra quyết toán là đúng hay sai ? Đề nghị quý bộ sớm trả lời ! tôi xin chân thành cảm ơn!
Căn cứ quy định tại điểm a khoản 4 Điều 39 Nghị định số 46/2015/NĐ-CP ngày 12/5/2015 của Chính phủ về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng: Đối với trường hợp sửa chữa công trình, thiết bị có chi phí dưới 5 trăm triệu đồng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước thì chủ sở hữu hoặc người quản lý sử dụng công trình tự quyết định về kế hoạch sửa chữa với các nội dung sau: Tên bộ phận công trình hoặc thiết bị cần sửa chữa, thay thế; lý do sửa chữa hoặc thay thế, mục tiêu sửa chữa hoặc thay thế; khối lượng công việc; dự kiến chi phí, dự kiến thời gian thực hiện và thời gian hoàn thành. Tại khoản 1 Điều 5 Thông tư số 92/2017/TT-BTC ngày 18/9/2017 của Bộ Tài chính quy định về lập dự toán, phân bổ và quyết toán kinh phí để thực hiện sửa chữa, bảo trì, cải tạo, nâng cấp, mở rộng cơ sở vật chất quy định: Các công trình có mức vốn dưới 500 triệu đồng: Các cơ quan, đơn vị tổng hợp chung trong báo cáo quyết toán hàng năm theo quy định tại Quyết định số 19/2006/QĐ-BTC ngày 30/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành Chế độ kế toán Hành chính sự nghiệp (được thay thế bởi Thông tư số 107/2017/TT-BTC ngày 10/10/2007 về chế độ kế toán hành chính sự nghiệp) và Thông tư số 01/2007/TT-BTC ngày 02/01/2007 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn xét duyệt, thẩm định và thông báo quyết toán năm đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ và ngân sách các cấp (được thay thế bởi Thông tư số 137/2017/TT-BTC ngày 25/12/2017 của Bộ Tài chính quy định xét duyệt, thẩm định, thông báo và tổng hợp quyết toán năm).
Kính gử Bộ Tài chính. Theo quy định tại Khoản 4 Điều 1, Thông tư số 52/2018, sửa đổi Thông tư 08/2016 của Bộ Tài chính có nội dung như sau: 4. Gạch đầu dòng thứ nhất Khoản 5, Điều 8 được sửa đổi, bổ sung như sau: “- Vốn tạm ứng được thu hồi qua các lần thanh toán khối lượng hoàn thành của hợp đồng, mức thu hồi từng lần do chủ đầu tư thống nhất với nhà thầu và quy định cụ thể trong hợp đồng và đảm bảo thu hồi hết khi giá trị thanh toán (bao gồm cả tạm ứng và thanh toán khối lượng hoàn thành) đạt 80% giá trị hợp đồng.” Tôi gặp trường hợp như sau: Khi ký hợp đồng gói thầu xây lắp (giá trị VD: 1 tỷ đồng), tại nội dung: Tạm ứng, thanh toán của hợp đồng ghi như sau: Về tạm ứng: Giá trị tạm ứng: 500 triệu đồng (tương đương 50% giá trị hợp đồng). Về Thanh toán: Thanh toán 1 lần: Giá trị thanh toán 100% giá trị hợp đồng và thu hồi ứng 100% giá trị tạm ứng. Khi thực hiện hoàn thành hợp đồng và lập hồ sơ thanh toán khối lượng nộp cơ quan thanh toán vốn đầu tư thì không chấp nhận thanh toán 1 lần với giá trị 100% giá trị hợp đồng và thu hồi 100% giá trị tạm ứng và được hướng dẫn như sau: Phải thực hiện thanh toán chia làm 2 lần: Lần thứ nhất: Thanh toán 80% giá trị hợp đồng và thu hồi hết 100% giá trị tiền tạm ứng. Lần thứ 2: Thanh toán 20% giá trị còn lại. Vì theo Cơ quan thanh toán cho rằng: Theo hướng dẫn tại Khoản 4, Điều 1 Thông tư 52/2018/TT-BTC thì phải làm thanh toán khi thanh toán (bao gồm cả tạm ứng và thanh toán khối lượng hoàn thành) đạt 80% giá trị hợp đồng Nên: Đối với những hợp đồng không thực hiện tạm ứng thì có thể làm thanh toán 1 lần, giá trị bằng 100% giá trị hợp đồng. Đối với những hợp đồng có tạm ứng thì bắt buộc phải làm thanh toán đúng giá trị 80% (bao gồm cả tạm ứng và thanh toán khối lượng hoàn thành) để thu hồi 100% giá trị tạm ứng (không được làm thanh toán có giá trị >80% để thu hồi tạm ứng 100%) Cho tôi hỏi: Đối với trường hợp nêu trên cơ quan thanh toán vốn hướng dẫn thực hiện như trên có phù hợp không.
Theo quy định tại các Thông tư số 08/2016/TT-BTC ngày 18/01/2016, số 52/2018/TT-BTC ngày 24/5/2018 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, đối với tạm ứng vốn, thu hồi vốn tạm ứng, thanh toán khối lượng hoàn thành: mức vốn tạm ứng, thời điểm tạm ứng và các nội dung khác để đảm bảo việc thu hồi tạm ứng do chủ đầu tư thống nhất với nhà thầu theo đúng quy định và phải được quy định rõ trong hợp đồng (khoản 3 Điều 1 Thông tư số 52/2018/TT-BTC ngày 24/5/2018), số lần thanh toán, giai đoạn thanh toán, thời điểm thanh toán, thời hạn thanh toán, hồ sơ thanh toán và điều kiện thanh toán phải được quy định rõ trong hợp đồng (điểm a khoản 1 Điều 9 Thông tư số 08/2016/TT-BTC ngày 18/01/2016). Việc thu hồi vốn tạm ứng theo quy định tại khoản 5 Điều 8 Thông tư số 08/2016/TT-BTC ngày 18/01/2016, được sửa đổi, bổ sung tại khoản 4 Điều 1 Thông tư số 52/2018/TT-BTC ngày 24/5/2018, trong đó có nội dung: vốn tạm ứng được thu hồi qua các lần thanh toán khối lượng hoàn thành của hợp đồng, mức thu hồi từng lần do chủ đầu tư thống nhất với nhà thầu và quy định cụ thể trong hợp đồng và đảm bảo thu hồi hết khi giá trị thanh toán (bao gồm cả tạm ứng và thanh toán khối lượng hoàn thành) đạt 80% giá trị hợp đồng. Căn cứ các quy định trên, đối với vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước, hợp đồng là căn cứ để thực hiện tạm ứng vốn, thu hồi vốn tạm ứng, thanh toán khối lượng hoàn thành, đồng thời vốn tạm ứng được đảm bảo thu hồi hết khi giá trị thanh toán (bao gồm cả tạm ứng và thanh toán khối lượng hoàn thành) đạt 80% giá trị hợp đồng. Như vậy, không quy định bắt buộc đối với những hợp đồng có tạm ứng thì phải thực hiện thanh toán chia làm 2 lần, trong đó lần 1 thanh toán 80% giá trị hợp đồng (bao gồm cả tạm ứng và thanh toán khối lượng hoàn thành) để thu hồi 100% vốn tạm ứng, lần 2 thanh toán 20% giá trị hợp đồng còn lại.
Công ty A phát hành trái phiếu vào năm 2016. Trong phương án phát hành, Công ty A nêu rõ tài sản đảm bảo là cổ phiếu của công ty B (Gọi tắt là "Cổ phiếu B") – hiện đang niêm yết trên sàn giao dịch UPCOM.
Đến thời điểm đáo hạn trái phiếu, công ty A không đủ khả năng thanh toán lãi suất trái phiếu. Do đó, Công ty A và các trái chủ sở hữu trái phiếu thống nhất sẽ xử lý tài sản đảm bảo là Cổ phiếu B (Công ty A và các trái chủ này không phải là tổ chức tín dụng và không phải là công ty niêm yết trên sàn chứng khoán).
Vậy, việc chuyển quyền sở hữu đối với cổ phiếu B từ Công ty A sang trái chủ có thể thực hiện ngoài hệ thống giao dịch chứng khoán của của SGDCK được không? và thủ tục như thế nào?
Việc chuyển quyền sở hữu cổ phiếu B trong trường hợp trên là giao dịch không mang tính chất mua bán hoặc không thể thực hiện được qua hệ thống giao dịch chứng khoán, có thể được thực hiện chuyển quyền sở hữu ngoài hệ thống giao dịch chứng khoán theo quy định tại Điểm m Khoản 2 Điều 6 Thông tư số 119/2020/TT-BTC ngày 31/12/2020 của Bộ Tài chính quy định hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán giao dịch chứng khoán: “Chuyển quyền sở hữu do xử lý tài sản bảo đảm là chứng khoán đã đăng ký tại Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam và thực hiện phong tỏa theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 23 Thông này. Trường hợp chuyển quyền sở hữu chứng khoán liên quan đến nhà đầu tư nước ngoài dẫn đến thay đổi tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ chỉ được thực hiện sau khi có ý kiến chấp thuận của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.” Cổ phiếu B hiện đang được giao dịch trên UPCOM nên đã được đăng ký tại Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam (VSD). Do đó, đề nghị nhà đầu tư liên hệ với VSD để được biết thủ tục chuyển quyền sở hữu cụ thể.
Khi quyết toán Dự án hoàn thành, cơ quan thẩm tra quyết toán căn cứ vào mẫu số 04/QDTA Thông tư 10/2020/TT-BTC ngày 20/02/2020 của Bộ tài chính làm căn cứ quyết toán. Khi đó cơ quan thẩm tra so sánh cơ cấu vốn trong tổng mức đầu tư làm căn cứ quyết toán. Trong quá trình đấu thầu và đã được trúng thầu cơ cấu vốn có thay đổi nhưng vẫn đảm bảo giá gói thầu nhỏ hơn giá gói thầu được phê duyệt. Vậy xin được hỏi Bộ Tài Chính: Nếu chi phí xây dựng quyết toán lớn hơn chi phí xây dựng được phê duyệt (hoặc điều chỉnh) thì trong khi quyết toán có bị cắt giảm phần chi phí này không. Và xin cho hỏi thêm khi quyết toán theo mẫu 04/QDTA có cần so sánh giữa chi phí đề nghị quyết toán và chi phí xây dựng được phê duyệt không? Trân trọng cảm ơn!
Tại Điều 14 Thông tư số 10/2020/TT-BTC ngày 20/02/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về quyết toán dự án hoàn thành sử dụng nguồn vốn nhà nước, quy định về thẩm tra chi phí đầu tư như sau: “Căn cứ tổng mức đầu tư được duyệt và báo cáo theo Mẫu số 04/QTDA, cơ quan chủ trì thẩm tra quyết toán thực hiện thẩm tra theo cơ cấu chi phí ghi trong tổng mức đầu tư: Chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, chi phí xây dựng, chi phí thiết bị, chi phí quản lý dự án, chi phí tư vấn đầu tư xây dựng, chi phí khác. 1. Nguyên tắc thẩm tra: a) Thẩm tra tính tuân thủ các quy định về hợp đồng xây dựng và quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu của cấp có thẩm quyền; hình thức giá hợp đồng ghi trong từng hợp đồng xây dựng (không phân biệt hình thức lựa chọn nhà thầu) là căn cứ để thẩm tra. Kiểm tra việc tổng hợp số liệu các thành phần chi phí và các khoản mục do chủ đầu tư lập trong báo cáo quyết toán. Trường hợp cần thiết, cơ quan chủ trì thẩm tra quyết toán kiểm tra hồ sơ hoàn công để xác định khối lượng công việc hoàn thành được nghiệm thu theo quy định. b) Trường hợp chi phí xây dựng công trình tạm, công trình phụ trợ phục vụ thi công, chi phí xây dựng nhà tạm để ở và điều hành thi công tại hiện trường được lập thiết kế, dự toán riêng cho hạng mục: Thẩm tra như thẩm tra gói thầu xây dựng độc lập. c) Trường hợp chi phí xây dựng công trình tạm, công trình phụ trợ phục vụ thi công, chi phí xây dựng nhà tạm để ở và điều hành thi công tại hiện trường được tính theo tỷ lệ (%) trong gói thầu xây dựng chính (không lập thiết kế, dự toán riêng): Thẩm tra việc áp dụng tỷ lệ (%) trên cơ sở kết quả thẩm tra gói thầu xây dựng chính. d) Trường hợp chi phí xây dựng công trình tạm, công trình phụ trợ phục vụ thi công, chi phí xây dựng nhà tạm để ở và điều hành thi công tại hiện trường được tính trọn[...]
Doanh nghiệp của tôi hoạt động trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh các dự án bất động sản.Thời gian gần đây, doanh nghiệp tôi có tham gia đấu giá một số khu đất trên cả nước, tuy nhiên tôi có một vấn đề kính mong Quý Bộ hướng dẫn giúp.
Tại một số tỉnh, tôi thấy UBND tỉnh xác định giá khởi điểm đấu giá đất dựa trên phần diện tích tính theo mật độ xây dựng của dự án (VD: Mật độ xây dựng của dự án A được phê duyệt là 60%, thì UBND tỉnh xác định giá khởi điểm dựa trên phần diện tích này, còn lại các công trình như đường xá, cầu cống, công viên cây xanh… sử dụng vào mục đích chung thì không tính tiền đấu giá).
Tuy nhiên, tại một số địa phương khác lại xác định giá khởi điểm dựa trên toàn bộ diện tích khu đất (VD: Khu đất B có diện tích 5000 m2, UBND tỉnh xác định giá khởi điểm dựa trên toàn bộ diện tích khu đất mà không trừ đi phần diện tích mà doanh nghiệp không thể sử dụng vào mục đích kinh doanh của dự án như diện tích đường xá, cầu cống, công viên cây xanh,…).
Kính mong Quý Bộ giải thích giúp tôi về quy định xác định giá khởi điểm đấu giá quyền sử dụng đất là dựa vào mật độ xây dựng (được duyệt) của khu đất hay xác định dựa trên toàn bộ diện tích khu đất, kính mong Quý Bộ đưa ra giúp tôi căn cứ để xác định giá khởi điểm trên. Vì trên thực tế, nhà đầu tư chỉ có thể sử dụng phần diện tích tính trên mật độ xây dựng (được duyệt) để sử dụng vào mục đích kinh doanh, khai thác dự án chứ không thể sử dụng toàn bộ diện tích của khu đất; trong khi phía cơ quan nhà nước lại xác định giá khởi điểm dựa trên toàn bộ diện tích khu đất là bất hợp lý, gây khó khăn, cản trở cho nhà đầu tư khi tham gia đấu giá, làm giảm hiệu quả kêu gọi đầu tư vào các dự án trên địa bàn kinh tế xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn.
Bộ Tài chính nhận được câu hỏi của ông Nguyễn Văn Lâm về việc xác định giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất về vấn đề này, Bộ Tài chính có ý kiến như sau: Tại khoản 1 Điều 108 Luật Đất đai năm 2013 quy định: (i) Căn cứ tính tiền sử dụng đất là diện tích đất được giao, mục đích sử dụng đất và giá đất; (ii) Căn cứ tính tiền thuê đất là diện tích đất cho thuê, thời hạn cho thuê đất, đơn giá thuê đất và hình thức Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê. Trong đó, giá đất làm căn cứ để tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất trong trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất là giá đất trúng đấu giá, đơn giá trúng đấu giá. Theo quy định tại khoản 3 Điều 5, khoản 1 Điều 38, khoản 1 Điều 58 Luật Đấu giá tài sản, giá khởi điểm là giá ban đầu thấp nhất của tài sản đấu giá trong trường hợp đấu giá theo phương thức trả lên giá; giá ban đầu cao nhất của tài sản đấu giá trong trường hợp đấu giá theo phương thức đặt giá xuống. Người có tài sản đấu giá phải công khai giá khởi điểm. Trên cơ sở giá khởi điểm nêu trên, tổ chức, cá nhân đủ điều kiện tham gia đấu giá đăng ký tham gia đấu giá thông qua việc nộp hồ sơ tham gia đấu giá hợp lệ và tiền đặt trước cho tổ chức đấu giá tài sản. Việc đăng ký tham gia hay không đăng ký tham gia đấu giá thuộc quyền tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện. Nội dung độc giả Nguyễn Văn Lâm phản ánh liên quan đến việc xác định diện tích đất phải nộp/không phải nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và giá đất cụ thể để xác định giá khởi điểm. Theo quy định của pháp luật về đất đai, các nội dung này thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tài nguyên và môi trường. Vì vậy, căn cứ quy định tại Nghị định số 36/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và[...]
Ngày 19/4, Chính phủ ban hành Nghị định 52/2021/NĐ-CP về gia hạn tiền nộp thuế và tiền thuê đất. Công ty chúng tôi hoạt động trong lĩnh vực sản xuất ô tô, xe máy, theo đó thuộc đối tượng áp dụng Nghị định 52/2021/NĐ-CP của Chính phủ về gia hạn tiền nộp thuế và tiền thuê đất. Công ty có trụ sở chính tại tỉnh Vĩnh Phúc và 01 Chi nhánh tại tỉnh Hà Nam. Chi nhánh tại tỉnh Hà Nam là chi nhánh hạch toán phụ thuộc của trụ sở chính tại tỉnh Vĩnh Phúc, có chức năng sản xuất xe máy và phụ tùng xe máy, không trực tiếp bán hàng, không phát sinh doanh thu. Hàng tháng công ty thực hiện khai thuế giá trị gia tăng (GTGT) tập trung tại trụ sở chính và phân bổ số thuế phải nộp cho Chi nhánh tại Hà Nam như sau:
– Đối với thuế giá trị gia tăng (GTGT): Phân bổ theo tỷ lệ 2% doanh thu của các mặt hàng sản xuất tại Hà Nam (thuế GTGT vãng lai).
– Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN): Phân bổ số nộp trên cơ sở xác định riêng thu nhập chịu thuế và số thuế phải nộp cho Chi nhánh Hà Nam.
Như vậy, theo quy định tại Nghị định 52/2021/NĐ-CP, Chi nhánh của Công ty chúng tôi tại Hà Nam có được gia hạn thời gian nộp thuế đối với số thuế GTGT và thuế TNDN nêu trên hay không?
Tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 52/2021/NĐ-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Chính phủ quy định về gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2021 quy định: “… b) Sản xuất, chế biến thực phẩm; dệt; sản xuất trang phục; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế); sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác; sản xuất kim loại; gia công cơ khí; xử lý và tráng phủ kim loại; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học; sản xuất ô tô và xe có động cơ khác; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế;” … e) Sản xuất đồ uống; in, sao chép bản ghi các loại; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị); sản xuất mô tô, xe máy; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị;” Tại Khoản 1, Khoản 2, Điều 3 Nghị định số 52/2021/NĐ-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Chính phủ quy định: “Điều 3. Gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất 1. Đối với thuế giá trị gia tăng (trừ thuế giá trị gia tăng khâu nhập khẩu) a) Gia hạn thời hạn nộp thuế đối với số thuế giá trị gia tăng phát sinh phải nộp (bao gồm cả số thuế phân bổ cho các địa phương cấp tỉnh khác nơi người nộp thuế có trụ sở chính, số thuế nộp theo từng lần phát sinh) của kỳ tính thuế từ tháng 3 đến tháng 8 năm 2021 (đối với trường hợp kê khai thuế giá trị gia tăng theo tháng) và kỳ tính thuế quý 1, quý 2 năm 2021 (đối với trường hợp kê khai thuế giá trị gia tăng theo quý) của các doanh nghiệp, tổ chức nêu tại Điều 2[...]