Hiện nay nhà đầu tư thành lập dự án trong khu công nghiệp thuộc địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bắt buộc phải thực hiện thủ tục nộp tờ trình xin chấp thuận dự án tại Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh, sau khi được chấp thuận mới nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Đây là một thủ tục không được quy định trong Luật Đầu tư 2020.
Khi tiến hành liên hệ làm rõ thủ tục, quy trình thực hiện, tôi được chuyên viên Ban quản lý gửi cho một văn bản gọi là tờ trình.
Do đây là thủ tục không được quy định trong bất cứ văn bản quy phạm pháp luật nào, vì thế, không có một quy trình cụ thể được đưa ra. Khi nộp hồ sơ tờ trình xin chấp thuận dự án nêu trên, tôi không nhận được thông tin về tiến trình xử lý hồ sơ, không có biên nhận tiếp nhận hồ sơ. Điều này gây khó khăn và tạo tổn thất rất lớn đối với doanh nghiệp.
Đề nghị cơ quan có thẩm quyền xác minh, làm rõ thủ tục trên (căn cứ pháp lý của thủ tục, quy trình, thời hạn xử lý) để doanh nghiệp biết và chuẩn bị đầy đủ cho kế hoạch kinh doanh, tránh tổn thất.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau: Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và mẫu văn bản về thủ tục đầu tư được thực hiện theo quy định tại các Điều 37, 38, 39 Luật Đầu tư năm 2020 và các văn bản hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (số 8909/BKHĐT-PC ngày 31/12/2020 và số 324/BKHĐT-PC ngày 20/1/2021). Theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, cơ quan tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ, không được yêu cầu nhà đầu tư nộp thêm giấy tờ khác ngoài các giấy tờ trong hồ sơ theo quy định tại Luật Đầu tư và Nghị định này. Theo quy định tại Điểm h Khoản 2 Điều 63 Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế, Ban quản lý khu công nghiệp có trách nhiệm giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhà đầu tư tại khu công nghiệp. Căn cứ các quy định nêu trên, trường hợp còn vướng mắc liên quan đến thủ tục đầu tư trong khu công nghiệp thuộc địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đề nghị bà liên hệ với Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để xem xét, xử lý theo thẩm quyền.
Nghị định số 01/2019/NĐ-CP quy định, khi lực lượng kiểm lâm chuyển sang lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách thì được bảo lưu phụ cấp cho đến khi có chính sách mới.
Ngày 28/12/2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Thông tư số 18/2020/TT-BNNPTNT quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và xếp lương viên chức chuyên ngành khuyến nông, chuyên ngành quản lý bảo vệ rừng; tuy nhiên, Thông tư không nêu rõ đối tượng này có được tiếp tục hưởng phụ cấp như kiểm lâm hay không.
Tôi xin hỏi, đối tượng kiểm lâm chuyển sang lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách có tiếp tục được hưởng phụ cấp như kiểm lâm hay không?
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trả lời vấn đề này như sau: Ngày 28/12/2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Thông tư số 18/2020/TT-BNNPTNT quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và xếp lương viên chức chuyên ngành khuyến nông, chuyên ngành quản lý bảo vệ rừng, trong đó quy định về xếp lương các chức danh nghề nghiệp viên chức quản lý bảo vệ rừng. Về chế độ phụ cấp của công chức, viên chức ngành kiểm lâm hiện được quy định tại Điều 1, Điểm a Khoản 1 Điều 2 Quyết định số 132/2006/QĐ-TTg ngày 31/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức, viên chức ngành kiểm lâm, bảo vệ thực vật, thú y và kiểm soát đê điều; Thông tư liên tịch số 64/2006/TTLT-BNN-BNV-BTC ngày 25/8/2006 của liên bộ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Quyết định số 132/2006/QĐ-TTg. Riêng về bảo lưu phụ cấp viên chức đã được xếp ngạch kiểm lâm được quy định cụ thể tại Điều 20 Nghị định số 01/2019/NĐ-CP ngày 1/1/2019 của Chính phủ về kiểm lâm và lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng: “Trường hợp Ban quản lý rừng đặc dụng, Ban quản lý rừng phòng hộ đang có Hạt Kiểm lâm khi thực hiện giải thể Hạt Kiểm lâm và chuyển sang mô hình tổ chức lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng theo quy định tại Điều 15 Nghị định này thì những viên chức đã được xếp ngạch kiểm lâm, đang được hưởng chế độ phụ cấp ưu đãi nghề, phụ cấp thâm niên nghề khi điều chỉnh sang thuộc viên chức lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng, trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ rừng tiếp tục được bảo lưu phụ cấp ở mức hiện đang được hưởng đến khi có chính sách mới thay thế chính sách tiền lương và chế độ phụ cấp hiện hành”. Vì vậy, đề nghị ông Nguyễn Xuân Hiếu báo cáo cấp có thẩm quyền để thực hiện theo quy định pháp luật nêu trên.
Tôi công tác tại một trường thuộc xã nghèo từ tháng 9/2015 cho đến nay, đã hưởng phụ cấp ưu đãi, phụ cấp thu hút theo Nghị định số 116/2010/NĐ-CP nhưng chưa hưởng trợ cấp lần đầu. Theo thông báo của địa phương, chỉ chi trả trợ cấp lần đầu cho những người nhận công tác xã nghèo sau khi Nghị định số 76/2019/NĐ-CP có hiệu lực, các trường hợp đến công tác tại vùng đặc biệt khó khăn trước đó không được hưởng. Xin hỏi, địa phương thực hiện trả trợ cấp lần đầu như thế đúng quy định không? Nếu không đúng thì trường hợp tôi phải làm như thế nào để được nhận trợ cấp lần đầu?
Bộ Nội vụ trả lời vấn đề này như sau: Theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 116/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn thì cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang đến công tác ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn từ 3 năm trở lên đối với nữ và 5 năm trở lên đối với nam được hưởng trợ cấp lần đầu. Trường hợp ông Đỗ Tính đến công tác ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn từ tháng 9/2015 thuộc diện áp dụng quy định tại Điều 6 Nghị định số 116/2010/NĐ-CP nêu trên. Nghị định số 76/2019/NĐ-CP ngày 8/10/2019 của Chính phủ về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/12/2019. Theo đó, những trường hợp đến công tác ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn kể từ ngày 1/12/2019 được áp dụng chính sách quy định tại Nghị định số 76/2019/NĐ-CP.
Điểm a Khoản 2 Điều 18 của Nghị định số 138/2020/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức quy định, “trường hợp quy định tại các Điểm a, b và c Khoản 1 Điều này phải có đủ 5 năm công tác trở lên (không kể thời gian tập sự, thử việc, nếu có thời gian công tác không liên tục thì được cộng dồn, kể cả thời gian công tác nếu có trước đó ở vị trí công việc thuộc các trường hợp quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản 1 Điều này) làm công việc có yêu cầu trình độ đào tạo chuyên môn phù hợp với vị trí việc làm cần tuyển”. Xin hỏi, cán bộ, công chức cấp xã dôi dư do thực hiện Nghị định số 34/2019/NĐ-CP sát hạch lên cấp huyện có thời gian công tác đủ 5 năm công tác trở lên, tuy nhiên bằng đại học chưa đủ 5 năm (4 năm 6 tháng) có đủ điều kiện để sát hạch lên công chức cấp huyện hay không?
Bộ Nội vụ trả lời vấn đề này như sau: Chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã dôi dư do thực hiện Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ đã được Bộ Nội vụ hướng dẫn cụ thể tại Thông tư số 13/2019/TT-BNV ngày 6/11/2019 hướng dẫn một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố. Việc xem xét, tiếp nhận cán bộ, công chức cấp xã thành công chức từ cấp huyện trở lên đề nghị thực hiện theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 138/2020/NĐ-CP. Theo đó, người được cấp có thẩm quyền xem xét, tiếp nhận vào công chức cấp huyện phải có đủ 5 năm công tác trở lên (không kể thời gian tập sự, thử việc, nếu có thời gian công tác không liên tục thì được cộng dồn…) làm công việc có yêu cầu trình độ đào tạo chuyên môn phù hợp với vị trí việc làm cần tuyển.
Tôi là công chức nhà nước, ngạch chuyên viên chính, công tác tại Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tôi sinh ngày 26/7/1966, giới tính nam, có quá trình công tác trong điều kiện lao động bình thường từ khi bắt đầu làm việc (từ năm 1992) đến nay, đã đóng BHXH bắt buộc đến tháng 12/2020 là 28 năm 8 tháng; xếp loại chất lượng công chức hàng năm: Hoàn thành nhiệm vụ (năm 2019), không hoàn thành nhiệm vụ (năm 2020). Tôi có nguyện vọng về hưu trước tuổi (theo Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ) vào tháng 11/2021 và đã được cơ quan đưa vào Kế hoạch tinh giản biên chế năm 2021. Hiện nay, Chính phủ đã có quy định mới về chính sách tinh giản biên chế và nghỉ hưu trước tuổi (Nghị định số 143/2020/NĐ-CP ngày 10/12/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP và Nghị định số 113/2018/NĐ-CP). Với trường hợp của tôi, xin hỏi tôi có đủ điều kiện để về hưu trước tuổi vào tháng 11/2021 (đủ 55 tuổi 3 tháng) theo Nghị định số 143/2020/NĐ-CP hay không? Tôi có được hưởng các chính sách tại Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 108/2014/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung tại Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 143/2020/NĐ-CP hay không?
Vụ Tổ chức – Biên chế, Bộ Nội vụ trả lời vấn đề này như sau: Hiện nay còn có ý kiến khác nhau về việc xác định tuổi nghỉ hưu trước tuổi khi thực hiện chính sách tinh giản biên chế theo Nghị định số 143/2020/NĐ-CP ngày 10/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế và Nghị định số 113/2018/NĐ-CP ngày 31/8/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế. Theo đó, Vụ Tổ chức – Biên chế đã tham mưu Lãnh đạo Bộ có Văn bản gửi xin ý kiến Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức Trung ương thống nhất hướng dẫn để các Bộ, ngành, địa phương xác định tuổi nghỉ hưu trước tuổi. Do vậy, Vụ Tổ chức – Biên chế đề nghị sau khi có ý kiến của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức Trung ương, Vụ Tổ chức – Biên chế trả lời ông Nguyễn Quang Châu (Phú Yên) theo quy định.
Công ty tôi đang hỗ trợ cho đội trưởng và đội phó đội phòng cháy chữa cháy 447.000 đồng/tháng, tương đương với 0,3% mức lương cơ sở. Công ty có đóng bảo hiểm cho khoản hỗ trợ này. Vậy, mức phụ cấp này có phải ghi vào hợp đồng lao động hay phụ lục hợp đồng lao động không? Phụ cấp này có được tính vào lương để chi trả tiền phép năm đối với những lao động chưa sử dụng hết phép năm không?
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trả lời vấn đề này như sau: Theo quy định tại Điểm a Khoản 5 Điều 4 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 22/1/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động thì hợp đồng lao động có nội dung mức lương, phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác. Điều 4 Thông tư số 47/2015/TT-BLĐTBXH ngày 16/11/2015 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định cụ thể về mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác thỏa thuận ghi trong hợp đồng lao động. Đề nghị ông đối chiếu các quy định trên và căn cứ vào tính chất của khoản hỗ trợ cho người lao động để ghi vào trong hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 4 Thông tư số 47/2015/TT-BLĐTBXH nêu trên. Theo quy định tại Khoản 3, Khoản 4 Điều 26 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/1/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động thì tiền lương làm căn cứ trả cho người lao động trong những ngày chưa nghỉ hàng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hàng năm tại Điều 114 của Bộ luật Lao động được quy định như sau: Đối với người lao động đã làm việc từ đủ 6 tháng trở lên là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 6 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc, bị mất việc làm. Đối với người lao động chưa nghỉ hàng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hàng năm vì các lý do khác là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 6 tháng liền kề trước khi người sử dụng lao động tính trả bằng tiền những ngày chưa nghỉ hàng năm. Đối với người lao động có thời gian làm việc dưới 6 tháng là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của toàn bộ thời gian làm việc. Vì vậy, trường hợp khoản phụ cấp phòng cháy, chữa cháy được ghi trong hợp đồng lao động thì khoản tiền này được tính vào tiền lương làm căn cứ trả cho người lao động trong những ngày chưa nghỉ hàng năm hoặc chưa nghỉ hết[...]