Tôi xin hỏi trường hợp như sau: Một lao động nữ, sinh ngày 15/12/1970, công tác trong một đơn vị sự nghiệp, có thời gian đóng BHXH đến thời điểm hiện tại là 23 năm trong điều kiện lao động bình thường, đã hoàn thiện hồ sơ xin nghỉ hưu trước tuổi. Lao động này xin nghỉ hưu trước tuổi theo diện “chưa đạt trình độ đào tạo theo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ quy định đối với vị trí việc làm đang đảm nhiệm, nhưng không có vị trí việc làm khác phù hợp để bố trí và không thể bố trí đào tạo lại để chuẩn hóa về chuyên môn, nghiệp vụ hoặc được cơ quan, đơn vị bố trí việc làm khác nhưng cá nhân tự nguyện thực hiện tinh giản biên chế và được cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý đồng ý”. Vậy theo quy định mới về tuổi nghỉ hưu, người lao động nêu trên có được giải quyết nghỉ hưu trước tuổi tại thời điểm tháng 5/2021 không, hay phải chờ đến thời điểm còn thiếu 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu của lao động nữ (tức là phải đủ 52 tuổi 8 tháng)?
Bộ Nội vụ trả lời vấn đề này như sau: Theo ý kiến của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tại Văn bản số 223/BLĐTBXH-BHXH ngày 28/1/2021 và Bộ Tư pháp tại Văn bản số 850/BTPPLDSKT ngày 24/3/2021 thì đối với trường hợp nữ, sinh tháng 12/1970 thuộc đối tượng tinh giản biên chế thì tại thời điểm tháng 5/2021 đã 50 tuổi 5 tháng, còn thấp hơn 4 tuổi 11 tháng so với tuổi nghỉ hưu của năm 2021 nên đủ điều kiện về tuổi để hưởng chính sách về hưu trước tuổi quy định tại Nghị định số 143/2020/NĐ-CP ngày 10/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP và Nghị định số 113/2018/NĐ-CP về chính sách tinh giản biên chế.
Tôi xin hỏi, doanh nghiệp có vốn đầu tư 100% nước ngoài có được mua đất tại Việt Nam hay không?
Bộ Tài nguyên và Môi trường trả lời vấn đề này như sau: Điều 169 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Điều 169. Nhận quyền sử dụng đất 1. Người nhận quyền sử dụng đất được quy định như sau: a) Hộ gia đình, cá nhân được nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp thông qua chuyển đổi quyền sử dụng đất quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 179 của Luật này; b) Tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân được nhận chuyển quyền sử dụng đất thông qua nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, trừ trường hợp quy định tại Điều 191 của Luật này; người Việt Nam định cư ở nước ngoài được nhận chuyển quyền sử dụng đất thông qua nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được nhận chuyển nhượng vốn đầu tư là giá trị quyền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ; c) Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư được nhận chuyển quyền sử dụng đất thông qua nhận tặng cho quyền sử dụng đất theo quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 174 và Điểm e Khoản 1 Điều 179 của Luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 191 của Luật này; d) Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư được nhận chuyển quyền sử dụng đất thông qua nhận thừa kế quyền sử dụng đất; đ) Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhà ở được nhận chuyển quyền sử dụng đất ở thông qua hình thức mua, thuê mua, nhận thừa kế, nhận tặng cho nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở hoặc được nhận quyền sử dụng đất ở trong các dự án phát triển nhà ở; e) Tổ chức kinh tế, doanh nghiệp liên doanh nhận chuyển quyền sử dụng đất thông qua nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất; g) Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được nhận quyền sử dụng đất thông qua việc[...]
Tôi làm việc tại một công ty và tham gia BHXH lần đầu tại BHXH quận Hoàn Kiếm, Hà Nội từ năm 2018, nhưng khi báo tăng người tham gia BHXH, tôi được biết công ty không nhận được sổ BHXH. Tháng 5/2019, tôi nghỉ việc tại công ty và làm việc cho một công ty có trụ sở tại tỉnh Quảng Ninh. Tháng 8/2019, tôi bắt đầu tham gia BHXH ở đơn vị mới tại BHXH Quảng Ninh. Tuy nhiên, khi tôi liên hệ với công ty cũ thì được trả lời, không chốt được sổ BHXH cho tôi do tôi không cung cấp được sổ BHXH. Hiện tại tôi có 2 mã số BHXH nên phải tiến hành gộp sổ. Công ty cũ của tôi nhiều lần liên hệ làm thủ tục chốt sổ BHXH nhưng đều không được thực hiện, lý do hiện nay tôi được biết là do BHXH quận Hoàn Kiếm chưa cấp sổ BHXH lần đầu cho tôi. Công ty mới của tôi làm thủ tục xin cấp lại sổ BHXH cho tôi tại BHXH tỉnh Quảng Ninh để thực hiện gộp 2 mã số BHXH thì nhận được câu trả lời, sổ gốc chưa cấp nên BHXH tỉnh Quảng Ninh không có căn cứ để cấp lại sổ BHXH, thời gian tham gia BHXH của tôi tại quận Hoàn Kiếm chưa được chốt nên không thể gộp sổ. Đề nghị cơ quan chức năng xem xét, giải quyết trường hợp của tôi.
BHXH quận Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội trả lời vấn đề này như sau: Bà Đỗ Thị Đào đang tham gia BHXH tại BHXH tỉnh Quảng Ninh. Trước đó, bà Đào đã được cấp sổ BHXH. Tuy nhiên khi tham gia BHXH tại công ty cũ (từ tháng 8/2017 đến tháng 5/2019) bà Đào đã không cung cấp số sổ BHXH đã tham gia ở đơn vị cũ nên BHXH quận Hoàn Kiếm đã cấp số sổ BHXH mới. Như vậy, bà Đỗ Thị Đào đã tồn tại 2 số sổ BHXH khác nhau, do bị trùng số Chứng minh nhân dân của 2 số sổ BHXH nêu trên, nên BHXH quận Hoàn Kiếm không thể thực hiện việc chốt sổ BHXH cho người lao động mà cần sự phối hợp với đại diện đơn vị và người lao động. Sau khi nhận được ý kiến phản ánh của bà Đào, BHXH quận Hoàn Kiếm đã phối hợp với BHXH tỉnh Quảng Ninh và đã thực hiện gộp 2 sổ BHXH và chốt thời gian từ tháng 8/2017 đến tháng 5/2019 vào ngày 15/4/2021. BHXH quận Hoàn Kiếm đã giải thích đầy đủ, thông báo với bà Đào liên lạc với đơn vị đang làm việc để nhận lại sổ BHXH.
Tôi hiện đang công tác tại ngành thuế, thuộc diện được chuyển ngạch và xếp lương vào ngạch cán sự (mới) theo quy định tại Thông tư số 05/2017/TT-BNV của Bộ Nội vụ. Diễn biến quá trình lương của tôi như sau: Ngày 1/1/2014 lương bậc 1, hưởng hệ số 1,86; bậc 2 tính từ ngày 1/1/2016; bậc 3 tính từ ngày 1/1/2018; bậc 4 tính từ ngày 1/1/2020. Ngày 30/3/2020, tôi nhận được quyết định nâng lương trước hạn năm 2019 do lập thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ, thời gian 9 tháng, từ bậc 3 lên bậc 4 hệ số 2,46, kể từ ngày 1/4/2019. Ngày 21/1/2021, tôi nhận được quyết định về việc chuyển ngạch và xếp lương vào ngạch cán sự (mới). Theo quyết định này, từ ngạch cán sự cũ, bậc 2/12 hệ số 2,06 tôi được xếp sang ngạch cán sự mới bậc 1/10 hệ số lương 2,10. Thời gian nâng bậc lương lần sau kể từ ngày 1/1/2016. Như vậy, nếu xếp theo ngạch cán sự mới thì thời gian nâng lương lần sau là 1/1/2019. Xin hỏi, quyết định nâng lương trước hạn của tôi được tính như thế nào? Tôi có bị truy thu lại tiền lương thực lãnh hay không? Cách tính lương theo việc chuyển ngạch lương cán sự mới trong trường hợp của bà được quy định thế nào?
Bộ Nội vụ trả lời vấn đề này như sau: Khoản 5 Điều 1 Thông tư số 05/2017/TT-BNV ngày 15/8/2017 của Bộ Nội vụ sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 03/2010/TT-BNV ngày 9/10/2014 và Thông tư số 13/2010/TT-BNV ngày 30/12/2010 của Bộ Nội vụ về tiêu chuẩn nghiệp vụ chuyên môn, bổ nhiệm ngạch và xếp lương đối với các ngạch công chức chuyên ngành hành chính và việc tổ chức thi nâng ngạch công chức đã quy định về bổ nhiệm và xếp lương vào ngạch cán sự: “Công chức tốt nghiệp trình độ cao đẳng phù hợp với vị trí công việc đang làm thì được bổ nhiệm vào ngạch cán sự (mới), nếu đang xếp lương theo công chức loại A0 ban hành kèm theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP thì tiếp tục xếp lương theo công chức loại A0 đó; nếu đang xếp lương theo công chức loại B ban hành kèm theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP thì được xếp lại lương theo hướng dẫn tại Khoản 1 Mục II Thông tư số 02/2007/TT-BNV ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn xếp lương khi nâng ngạch, chuyển loại công chức, viên chức. Trường hợp công chức chưa có bằng tốt nghiệp cao đẳng phù hợp với vị trí công việc đang làm nhưng đã được bổ nhiệm vào ngạch cán sự (cũ) và đang xếp lương theo công chức loại B ban hành kèm theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP thì tiếp tục xếp lương theo công chức loại B đó trong thời hạn 06 năm kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực. Trong thời hạn 06 năm này, cơ quan sử dụng công chức phải bố trí cho công chức học tập nâng cao trình độ để đủ tiêu chuẩn của ngạch cán sự (mới); khi công chức đáp ứng đủ tiêu chuẩn, điều kiện ở ngạch cán sự (mới) thì cơ quan sử dụng công chức báo cáo cơ quan quản lý công chức để xem xét, quyết định bổ nhiệm vào ngạch cán sự (mới). Trường hợp công chức được cử đi học tập nâng cao trình độ mà không tham gia học tập hoặc kết quả học tập không đạt yêu cầu thì cơ quan sử dụng công chức báo cáo cơ quan quản lý công chức xem xét bố trí lại công việc[...]
Tại Khoản 5 Điều 40 Luật Đầu tư công quy định: “Trình tự lập, thẩm định, phê duyệt dự toán nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư và nhiệm vụ quy hoạch được quy định như sau:
(a) Căn cứ nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư và nhiệm vụ quy hoạch được cấp có thẩm quyền quyết định, cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư và nhiệm vụ quy hoạch lập dự toán nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư, nhiệm vụ quy hoạch trình người đứng đầu Bộ, cơ quan trung ương, Chủ tịch UBND các cấp quyết định;
(b) Người đứng đầu Bộ, cơ quan trung ương, Chủ tịch UBND các cấp thành lập Hội đồng thẩm định hoặc giao cơ quan chuyên môn quản lý đầu tư công tổ chức thẩm định dự toán nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư, nhiệm vụ quy hoạch;
(c) Hội đồng thẩm định hoặc cơ quan chuyên môn quản lý đầu tư công thẩm định các nội dung dự toán theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn, định mức kinh phí nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư, nhiệm vụ quy hoạch;
(d) Căn cứ ý kiến thẩm định, chủ đầu tư hoàn chỉnh dự toán nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư, nhiệm vụ quy hoạch để người đứng đầu Bộ, cơ quan trung ương, Chủ tịch UBND các cấp phê duyệt dự toán”.
Tại Điều 10 Nghị định số 10/2021/NĐ-CP quy định: “Thẩm định, phê duyệt chi phí chuẩn bị dự án:
(1) Chi phí chuẩn bị dự án gồm chi phí để thực hiện các công việc: Khảo sát xây dựng; lập, thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đầu tư xây dựng, chấp thuận chủ trương đầu tư (nếu có); lập, thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng, báo cáo kinh tế – kỹ thuật đầu tư xây dựng và các công việc cần thiết khác liên quan đến chuẩn bị dự án.
(2) Cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ chuẩn bị dự án hoặc chủ đầu tư (trong trường hợp đã xác định được chủ đầu tư) tổ chức lập, thẩm định và phê duyệt dự toán chi phí chuẩn bị dự án quy định tại Khoản 1 Điều này, trừ các trường hợp quy định tại Khoản 3, 4 Điều này.
(3) Đối với dự án quan trọng quốc gia sử dụng vốn đầu tư công, việc lập, thẩm định và phê duyệt dự toán chi phí chuẩn bị dự án quy định tại Khoản 1 Điều này thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư công.
(4) Đối với dự toán chi phí thuê tư vấn nước ngoài thực hiện công việc nêu tại Khoản 1 Điều này thì thẩm quyền thẩm định, phê duyệt dự toán thực hiện theo quy định tại Khoản 4 Điều 32 Nghị định này.
(5) Dự toán chi phí chuẩn bị dự án quy định tại Khoản 1 Điều này sau khi được phê duyệt được cập nhật vào tổng mức đầu tư xây dựng”.
Căn cứ các quy định nêu trên, tôi xin hỏi, cơ quan thẩm định dự toán chuẩn bị đầu tư đối với dự án có cấu phần xây dựng thực hiện theo quy định tại Điểm b Khoản 5 Điều 40 của Luật Đầu tư công hay thực hiện theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 10 của Nghị định số 10/2021/NĐ-CP?
Bộ Xây dựng trả lời vấn đề này như sau: Khoản 3 Điều 40 Luật Đầu tư công quy định, trình tự lập, thẩm định, quyết định đầu tư dự án có cấu phần xây dựng thực hiện theo quy định của pháp luật về xây dựng và quy định khác của pháp luật có liên quan, trừ dự án quan trọng quốc gia. Do đó, đối với dự án có cấu phần xây dựng (trừ dự án quan trọng quốc gia sử dụng vốn đầu tư công) và pháp luật về quản lý chi phí đầu tư xây dựng áp dụng cho dự án là Nghị định số 10/2021/NĐ-CP ngày 9/2/2021 của Chính phủ thì thẩm quyền thẩm định, phê duyệt dự toán chi phí các công việc chuẩn bị dự án được thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 10 Nghị định này.
Trong quá trình kiểm tra công tác cán bộ, tôi phát hiện một số cơ quan, đơn vị (nhất là đơn vị sự nghiệp công lập) thực hiện việc giao quyền phụ trách phòng cho công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. Các cơ quan này giải trình do thay đổi cơ cấu nên các phòng không có Trưởng, Phó phòng, mặt khác hiện không có quy định về tiêu chuẩn giao quyền phụ trách nên mới giao quyền phụ trách phòng cho công chức không giữ chức vụ và được hưởng hệ số Trưởng phòng. Xin hỏi, việc làm trên có đúng quy định hay không?
Vụ Công chức – Viên chức, Bộ Nội vụ trả lời như sau: Khoản 3 Điều 47 Nghị định số 138/2020/NĐ-CP quy định: “Trường hợp cơ quan, tổ chức chưa kiện toàn người đứng đầu, căn cứ yêu cầu nhiệm vụ, cấp có thẩm quyền bổ nhiệm xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm việc giao quyền hoặc giao phụ trách cơ quan, tổ chức cho đến khi bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Thời gian giao quyền, giao phụ trách không tính vào thời gian giữ chức vụ khi được bổ nhiệm”. Như vậy, việc giao “quyền” không phải là việc bổ nhiệm công chức giữ chức danh lãnh đạo, quản lý và pháp luật không quy định việc giao “quyền” phải giao cho người đang giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. Tuy nhiên, việc giao một công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý để thực hiện chức trách, nhiệm vụ của công chức lãnh đạo, quản lý là chưa phù hợp. Trong thời gian tới, Vụ Công chức – Viên chức sẽ báo cáo cấp có thẩm quyền quy định cụ thể về vấn đề này để thống nhất thực hiện.