TIN NỔI BẬT
Năng lực cạnh tranh và vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp nhà nước trong kỷ nguyên sốThanh toán không dùng tiền mặt mở lối quản lý thời gian thực, kiểm soát rủi ro rửa tiềnKinh tế Việt Nam 2025: Tạo đà phát triển bền vữngCần “hãm phanh” đà tăng nóng của giá nhàXác nhận thời gian đóng BHXH khi doanh nghiệp không còn khả năng đóngNăm 2026: Năng lực chống chịu rủi ro sẽ tái định vị các công ty chứng khoánNgành Chứng khoán đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanhCải cách thuế thu nhập cá nhân: Hướng đến hệ thống đơn giản, công bằng và dễ thực hiệnBộ Tài chính đẩy mạnh cải cách thể chế lĩnh vực kinh doanh bảo hiểmGiá tăng mạnh từ căn hộ đến biệt thự, tại sao Tây Hồ Tây vẫn là đích đến của giới thượng lưu?Hai điểm tựa cho thị trường chứng khoán năm 2026Luật Chứng khoán sửa đổi được phổ biến sâu rộng tới doanh nghiệp miền TrungCPA VIETNAM tham gia chương trình thiện nguyện tại huyện Bắc Mê, tỉnh Hà GiangBẢN TIN PHÁP LUẬT THÁNG 11/2025Giá đất tăng mạnh từ năm 2026: Cần thận trọng, tránh gây xáo trộn thị trường!Bộ Tài chính công bố danh mục chế độ báo cáo định kỳ mới trong lĩnh vực chứng khoánỔn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy mục tiêu tăng trưởng trên 8%Ngành Tài chính tiếp tục cải cách, đơn giản hóa thủ tục trong lĩnh vực chứng khoánBộ Tài chính tiếp thu, hoàn thiện dự thảo Thông tư hướng dẫn Luật Thuế thu nhập doanh nghiệpTuyển dụng Trợ lý Thẩm Định Viên (Làm việc tại Hà Nội)

Doanh nghiệp chúng tôi là doanh nghiệp bất động sản có hoạt động cho thuê mặt bằng kinh doanh dịch vụ. Tháng 10/2017 chúng tôi có ký hợp đồng cho thuê mặt bằng với đối tác là Công ty A dùng để kinh doanh siêu thị. Thời hạn thuê của hợp đồng từ T12/2017 trong vòng 7 năm, thanh toán theo kỳ 3 tháng/lần. Khách hàng đã tiến hành đặt cọc giá trị tiền thuê tương đương 3 tháng thuê nhà, nhận bàn giao mặt bằng để thi công cửa hàng 16/10/2017. Đến T11/2017 khách hàng có công văn yêu cầu DN giãn thời gian thuê từ T12/2017 đến T2/2018 do việc thiết kế thi công cửa hàng gặp khó khăn, đã được DN chúng tôi chấp thuận. Đến T2/2018 DN chúng tôi đã rất nhiều lần liên hệ nhưng khách hàng không đến. DN đến trụ sở công ty trên địa chỉ tại Hợp đồng thì thấy địa chỉ đang thi công xây dựng lại không liên hệ được chủ DN. Thời điểm bắt đầu kỳ thuê mới chúng tôi đã xuất hóa đơn báo thuế GTGT theo đúng quy định về pháp luật thuế. Đến 13/4/2018 chúng tôi đã ra thông báo thu hồi mặt bằng do công ty thuê đã không thực hiện theo đúng hợp đồng (không sửa chữa thi công, không thanh toán tiền thuê…sau 30 ngày khi công ty đã gửi đề nghị thanh toán bằng mail, gọi điện…) Sau 14 ngày chúng tôi đã đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê mặt bằng với khách hàng (theo đúng điều khoản trong hợp đồng đã ký kết). Vậy xin hỏi bộ tài chính với hóa đơn đã xuất cho hoạt động cho thuê này nhưng khách hàng chưa nhận và công ty chưa nhận được lợi ích kinh tế từ hoạt động này, DN chúng tôi có được kê khai điều chỉnh giảm doanh thu, thuế GTGT phải nộp của toàn bộ giá trị thuê mặt bằng chưa được thực hiện. Giá trị tiền đặt cọc sẽ được sử lý thành thu nhập bất thường sau khi trừ chi phí của việc thu hồi mặt bằng. Xin trân trọng cám ơn!

– Căn cứ Điều 17 Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/05/2010 của Chính phủ quy định về xử lý hóa đơn đã lập.
“1. Trường hợp lập hoá đơn chưa giao cho người mua, nếu phát hiện hoá đơn lập sai, người bán gạch chéo các liên và lưu giữ số hoá đơn lập sai.

2. Trường hợp hoá đơn đã lập được giao cho người mua nếu phát hiện lập sai, hoặc theo yêu cầu của một bên, hàng hoá, dịch vụ đã mua bị trả lại hoặc bị đòi lại, hai bên lập biên bản thu hồi các liên của số hoá đơn lập sai, hoặc hoá đơn của hàng hoá, dịch vụ bị trả lại, bị đòi lại và lưu giữ hoá đơn tại người bán…”

– Căn cứ  Bộ Luật dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24/11/2015 của Quốc hội
+ Tại Điều 328 quy định về đặt cọc
“2. Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
+ Tại Điều 360 quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
“Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”
+Tại Điều 418 quy định về thỏa thuận phạt vi phạm
“1. Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.

2.Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

3.Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.”
– Căn cứ khoản 13 Điều 7 Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, quy định về khoản thu nhập khác:
“Thu nhập khác là các khoản thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *