TIN NỔI BẬT
Tạo lực cho thị trường vàng trang sức từ "sàn vàng" quốc giaFed nới lỏng tiền tệ, nhu cầu trú ẩn vào vàng vẫn chiếm ưu thếChung cư và nhà riêng lẻ dẫn dắt thị trường bất động sản năm 2025Hà Nội chứng kiến mức độ quan tâm đất nền dự án giảm tới 55%Thành lập Ban Quản lý thị trường giao dịch tài sản mã hóaThị trường chứng khoán Việt Nam 2026: Bộ ba nền tảng nâng chất kỳ vọngXu thế vận động của thị trường: phân hóa dẫn dắt cơ hộiĐịnh vị Chiến lược Tài chính trước bối cảnh mới, hướng tới mục tiêu năm 2030Chính sách thuế thu nhập cá nhân mới: Hài hòa, công bằng, dễ thực hiệnKhôi phục ưu đãi cho nông sản, giảm gánh nặng cho doanh nghiệpBộ Xây dựng làm rõ tiêu chí thẩm định chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội theo cơ chế đặc thùTuyển Dụng Trợ lý Kiểm toánTuyển Dụng Nhân viên Kế toán Tổng hợpHộ kinh doanh hưởng lợi từ ngưỡng doanh thu miễn thuế mới 500 triệu đồngThoái vốn dồn dập, thị trường chứng khoán tháng 12 vào cao điểmDịch vụ tài chính số tăng trưởng mạnh mẽQuyết liệt các giải pháp để đạt tăng trưởng trên 8%Giá nhà Hà Nội lập đỉnh, nhà đầu tư dịch chuyển sang thị trường mớiNgân hàng tăng phí, tài khoản có số dư thấp chịu tác độngBộ Tài chính lấy ý kiến cho Dự thảo thông tư về giám sát thị trường chứng khoán

Không đủ cơ sở xét hoàn thuế đối với hàng sản xuất từ nguyên liệu miễn thuế

 

Công chức Cục Hải quan Bình Dương làm thủ tục XNK cho doanh nghiệp.	 Ảnh: T.D

Công chức Cục Hải quan Bình Dương làm thủ tục XNK cho doanh nghiệp. Ảnh: T.D

Nếu cơ quan Hải quan không có cơ sở xác định hàng hóa đưa vào sản xuất, đã nộp các loại thuế và đã xuất khẩu ra nước ngoài là hàng hóa được sản xuất từ nguyên liệu, vật tư thuộc tờ khai nhập khẩu ban đầu đã thay đổi mục đích sử dụng thì sẽ không đủ cơ sở để xem xét hoàn thuế.

Trước vướng mắc của Cục Hải quan Bình Dương liên quan đến việc xử lý hoàn thuế đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất xuất khẩu thay đổi mục đích sử dụng sau đó tái xuất ra nước ngoài, Tổng cục Hải quan cho biết, điểm d khoản 1 Điều 19 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định các trường hợp hoàn thuế, người nộp thuế đã nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu để sản xuất, kinh doanh nhưng đã đưa vào sản xuất hàng hóa xuất khẩu và đã xuất khẩu sản phẩm.

Khoản 1 Điều 36 Nghị định 134/2016/NĐ-CP quy định người nộp thuế đã nộp thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để sản xuất, kinh doanh nhưng đã đưa vào sản xuất hàng hóa xuất khẩu và đã xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài, hoặc xuất khẩu vào khu phi thuế quan được hoàn thuế nhập khẩu đã nộp.

Tuy nhiên, tại khoản 5 Điều 25 Nghị định 08/2015/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại khoản 12 Điều 1 Nghị định 59/2018/NĐ-CP quy định về hàng hóa xuất nhập khẩu thuộc đối tượng không chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thuế bảo vệ môi trường hoặc miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và đã được giải phóng hàng hoặc thông quan nhưng sau đó có thay đổi về đối tượng không chịu thuế hoặc mục đích được miễn thuế thì phải khai tờ khai hải quan mới. Chính sách quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu; chính sách thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu thực hiện tại thời điểm đăng ký tờ khai hải quan mới trừ trường hợp đã thực hiện đầy đủ chính sách quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu tại thời điểm đăng ký tờ khai ban đầu.

Theo trình bày của Cục Hải quan Bình Dương, trường hợp của Công ty TNHH kỹ nghệ gỗ Hoa Nét đã nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất xuất khẩu thuộc đối tượng miễn thuế nhập khẩu theo quy định tại khoản 7 Điều 16 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhưng sau đó công ty thay đổi mục đích sử dụng đối với nguyên liệu nhập khẩu miễn thuế nêu trên (tờ khai mã loại hình A42) và đã sử dụng nguyên liệu tại tờ khai thay đổi mục đích sử dụng vào sản xuất sản phẩm bán cho khách hàng trong nước, có xuất hóa đơn giá trị gia tăng nhưng do hàng không đạt chất lượng bị trả về nên công ty sử dụng sản phẩm này để xuất khẩu.

Với trường hợp này, cơ quan Hải quan không có cơ sở xác định hàng hóa đưa vào sản xuất, đã nộp thuế nhập khẩu, các loại thuế khác (nếu có) và đã xuất khẩu ra nước ngoài là hàng hóa được sản xuất từ nguyên liệu, vật tư thuộc tờ khai nhập khẩu ban đầu đã thay đổi mục đích sử dụng, do đó không đủ cơ sở để xem xét hoàn thuế theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 19 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Điều 36 Nghị định 134/2016/NĐ CP.

Trích nguồn

Nụ Bùi