TIN NỔI BẬT
Năng lực cạnh tranh và vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp nhà nước trong kỷ nguyên sốThanh toán không dùng tiền mặt mở lối quản lý thời gian thực, kiểm soát rủi ro rửa tiềnKinh tế Việt Nam 2025: Tạo đà phát triển bền vữngCần “hãm phanh” đà tăng nóng của giá nhàXác nhận thời gian đóng BHXH khi doanh nghiệp không còn khả năng đóngNăm 2026: Năng lực chống chịu rủi ro sẽ tái định vị các công ty chứng khoánNgành Chứng khoán đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanhCải cách thuế thu nhập cá nhân: Hướng đến hệ thống đơn giản, công bằng và dễ thực hiệnBộ Tài chính đẩy mạnh cải cách thể chế lĩnh vực kinh doanh bảo hiểmGiá tăng mạnh từ căn hộ đến biệt thự, tại sao Tây Hồ Tây vẫn là đích đến của giới thượng lưu?Hai điểm tựa cho thị trường chứng khoán năm 2026Luật Chứng khoán sửa đổi được phổ biến sâu rộng tới doanh nghiệp miền TrungCPA VIETNAM tham gia chương trình thiện nguyện tại huyện Bắc Mê, tỉnh Hà GiangBẢN TIN PHÁP LUẬT THÁNG 11/2025Giá đất tăng mạnh từ năm 2026: Cần thận trọng, tránh gây xáo trộn thị trường!Bộ Tài chính công bố danh mục chế độ báo cáo định kỳ mới trong lĩnh vực chứng khoánỔn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy mục tiêu tăng trưởng trên 8%Ngành Tài chính tiếp tục cải cách, đơn giản hóa thủ tục trong lĩnh vực chứng khoánBộ Tài chính tiếp thu, hoàn thiện dự thảo Thông tư hướng dẫn Luật Thuế thu nhập doanh nghiệpTuyển dụng Trợ lý Thẩm Định Viên (Làm việc tại Hà Nội)

Kính gửi Bộ Tài Chính, tôi hiện công tác tại Tổng Công ty Điện lực TP HCM, tôi có thắc mắc liên quan đến thông tư 48/2019/TT-BTC ngày 08 tháng 8 năm 2019 về việc hướng dẫn việc trích lập và xử lý các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, tổn thất các khoản đầu tư, nợ phải thu khó đòi và bảo hành sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, công trình xây dựng tại doanh nghiệp. Tại gạch đầu dòng thứ 6 điểm a khoản 4 điều 6 quy định: Khoản nợ phải thu đã được trích lập 100% dự phòng theo quy định tại gạch đầu dòng thứ 4 điểm a khoản 2 Điều này mà sau 03 năm tính từ thời điểm doanh nghiệp trích lập đủ 100% dự phòng mà vẫn chưa thu hồi được nợ. Tôi thắc mắc quy định trên áp dụng cho các khoản nợ phải thu đã quá thời hạn thanh toán hay chưa đến thời hạn thanh toán? Ví dụ: Khách hàng của chúng tôi là doanh nghiệp, tổ chức đã ngừng hoạt động thì sau khi đã trích lập 100% dự phòng, chúng tôi có phải chờ sau 3 năm mới được xử lý tài chính khoản nợ trên không? Trân trọng.

– Tại điểm a Khoản 4 Điều 6 Thông tư số 48/2019/TT-BTC ngày 08/8/2019 quy định:
“Điều 6. Dự phòng nợ phải thu khó đòi
4. Xử lý tài chính các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi:
a) Nợ phải thu không có khả năng thu hồi là các khoản nợ phải thu đã quá thời hạn thanh toán hoặc chưa đến thời hạn thanh toán thuộc một trong những trường hợp sau:

– Khoản nợ phải thu đã được trích lập 100% dự phòng theo quy định tại gạch đầu dòng thứ 4 điểm a khoản 2 Điều này mà sau 03 năm tính từ thời điểm doanh nghiệp trích lập đủ 100% dự phòng mà vẫn chưa thu hồi được nợ.”
– Tại Điểm a Khoản 2 Điều 6 Thông tư số 48/2019/TT-BTC ngày 08/8/2019 quy định:
“2. Mức trích lập:
a) Đối với nợ phải thu quá hạn thanh toán, mức trích lập dự phòng như sau:
– 30% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 6 tháng đến dưới 1 năm.
– 50% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 1 năm đến dưới 2 năm.
– 70% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 2 năm đến dưới 3 năm.
– 100% giá trị đối với khoản nợ phải thu từ 3 năm trở lên.”
Đề nghị độc giả căn cứ theo quy định trên để thực hiện.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *