Một số nguyên tắc cơ bản liên quan đến hoạt động ký kết và thực hiện hợp đồng quốc tế.(Ảnh minh họa)
Khi tham gia vào các giao dịch mua bán hàng hoá quốc tế các bên đều bị điều chỉnh bởi các quy tắc pháp lý trước hết là hợp đồng không trái với pháp luật và đạo đức xã hội trên thực tế hợp đồng cho thấy không phải lúc nào giao dịch cũng diễn ra một cách thuận lợi và trôi chảy.
1. Khái niệm hợp đồng quốc tế.
Để hiểu về hợp đồng thương mại quốc tế thì trước tiên cần hiểu về hợp đồng mua bán bởi lẽ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất quốc tế. Pháp luật Việt Nam có quy định về hợp đồng mua bán tài sản như sau: hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán (Bộ luật dân sự 2015). Theo luật thương mại 2005 thì hàng hòa là tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; và những vật gắn liền với đất đai có thể mua bán được.
Luật thương mại 2005 không định nghĩa thế nào là hợp đồng thương mại nhưng theo điều 1 và điều 2 của Luật thương mại 2005 (nêu phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh của Luật thương mại 2005) có thể định nghĩa: “Hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận để thực hiện các hoạt động thương mại trên lãnh thổ
Việt Nam và hoạt động thương mại ngoài lãnh thổ Việt Nam nếu các bên áp dụng thoả thuận luật này hoặc luật nước này, hay điều ước quôc tế mà Việt Nam là thành viên có qui định áp dụng luật này.”
Hợp đồng thương mại quốc tế theo Công ước Viên 1980 (CISG) là sự thoả thuân giữa các đương sự có trụ sở kinh doanh ở các quốc gia khác nhau, theo đó gọi là bên bán (xuất khẩu) có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu cho một bên khác gọi là bên mua (nhập khẩu) một tài sản nhất định gọi là hàng hoá. Bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng.
Bản chất của hợp đồng thương mại quốc tế là các hợp đồng mua bán hàng hoá có sự thoả thuận của các bên ký kết hợp đồng. điều cơ bả là hợp đồng phải thể hiện ý chí thực sự thoả thuận không bị cưỡng bức lừa dối lẫn nhau và có những nhầm lẫn không thể chấp nhận được.
Pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, tuy nhiên tại Điều 663 BLDS 2015 có quy định về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Theo đó, một quan hệ dân sự được xem là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài khi có một trong ba yếu tố: chủ thể có yếu tố nước ngoài; việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài; đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài. Mua bán hàng hóa quốc tế là quan hệ thương mại quốc tế và theo đó là một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng và thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Như vậy, quy định tại Điều 663 được áp dụng để xác định một quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế. Vậy một hợp đồng mua bán hàng hóa được xem là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi có một trong ba căn cứ sau:
– Ít nhất một trong các bên tham gia mua bán hàng hóa là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài;
– Căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ mua bán hàng hóa theo pháp luật nước ngoài;
– Hàng hóa, đối tượng của hợp đồng, ở nước ngoài.
2. Tính chất quốc tế của hợp đồng thƣơng mại quốc tế.
Trong pháp luật Việt Nam cũng như trong pháp luật quốc tế, không tồn tại một khái niệm thống nhất về các hợp đồng quốc tế. Tính chất quốc tế của hợp đồng ở đây thể hiện ở dấu hiệu quốc tịch của các bên.
Công ước Viên năm 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế quan niệm một hợp đồng mua bán hàng hóa có tính chất quốc tế khi vào thời điểm giao kết hợp đồng, các bên có trụ sở thương mại (nếu là pháp nhân) hay có nơi cư trú (nếu là thể nhân) ở những nước khác nhau. Theo Bộ quy tắc về Hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT (Viện quốc tế về thống nhất hóa luật tư). phiên bản năm 2010, tính chất quốc tế của hợp đồng có thể được xác định theo nhiều cách khác nhau. Một số tiêu chí phổ biến được sử dụng bao gồm:
– Trụ sở thương mại hay nơi cư trú của các bên ở những nước khác nhau;
– Hợp đồng có mối liên hệ mật thiết với hơn một quốc gia;
– Hợp đồng đòi hỏi phải có sự lựa chọn pháp luật của các quốc gia khác
nhau;
– Hợp đồng có ảnh hưởng đến các lợi ích thương mại quốc tế. Bộ quy tắc UNIDROIT 2010 dùng cách hiểu rộng nhất có thể về hợp đồng thương mại quốc tế, loại trừ những trường hợp hợp đồng không có bất kỳ một mối liên hệ nào với hơn một quốc gia.
Theo khoản 2 điều 1 Bộ quy tắc về lựa chọn pháp luật âp dụng cho các hợp đồng thương mại quốc tế của Hội nghị Lahaye về Tư pháp quốc tế (HCCH) cũng tiếp cận theo cách trên, bằng việc dùng phương pháp loại trừ: “Một hợp đồng có tính chất quốc tế trừ khi các bên đều có trụ sở tại cùng một nước và quan hệ giữa các bên, cũng như các yếu tố khác, không tính đến luật được lựa chọn, đều chỉ liên quan đến một nước”. Công ước Lahaye năm 1964, Công ước này cũng không quan tâm đến vấn đề quốc tịch của các bên khi xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
3. Đặc điểm về mặt pháp lý của hợp đồng thương mại quốc tế.
– Chủ thể của quan hệ hợp đồng thương mại quốc tế là những thương nhân có trụ sở thương mại tại các nước khác nhau hay hoặc có nơi cư trú khác nhau. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
– Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa được di chuyển từ khu vực pháp lý này đến khu vực pháp lý khác. Thông thường đối tượng của hợp đồng thương mại quốc tế là hàng hóa chuyển qua biên giới của quốc gia, tuy nhiên, nhiều trường hợp hàng hóa không cần qua biên giới quốc gia vẫn được xem là hoạt động mua bán quốc tế như hàng hóa đưa ra, đưa vào khu phi thuế quan, kho bảo thuế, kho ngoại quan.
– Nội dung của hợp đồng:
Nội dung của hợp đồng bao gồm những điều khoản cơ bản và những điều khoản tùy nghi, thể hiện sự thỏa thuận, cam kết của các bên về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng. Những điều khoản cơ bản là những điều khoản mà khi được xác lập, hợp đồng coi như được ký kết.
– Pháp luật áp dụng:
Luật áp dụng cho hợp đồng được hiểu là luật nội dung của luật quốc gia hoặc Điều ước quốc tế được áp dụng để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng; điều kiện hiệu lực của hợp đồng. Luật áp dụng cho hợp đồng thương mại quốc tế mang tính chất đa dạng và phức tạp không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước đó mà còn cả pháp luật nước ngoài thậm chí phải chịu sự điều chỉnh của điều ước quốc tế, tập quán thương mại quốc tế hoặc cả án lệ. Về nguyên tắc trong một hợp đồng, các bên có thể chọn luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng hoặc chỉ một phần của hợp đồng. Các bên được tự do thỏa thuận về pháp luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng giữa họ. Pháp luật áp dụng do các bên lựa chọn là căn cứ để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên, trừ những nội dung các bên đã thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng, hoặc trừ những trường hợp bảo lưu trật tự công cộng.
4. Phân loại hợp đồng.
Trong thực tiễn, căn cứ vão đối tượng chủ thể của hoạt động thương mại quốc tế có thể tạm phản chia hợp đồng thương mại quốc tế thành bốn nhóm cơ bản sau:
Thứ nhất, Hợp đổng thương mại quốc tể liên quan đến mua bán, trao đổi hàng hoá. Loại này là loại hợp đống chủ yếu trong hoạt động thương mại quốc tế, bao gốm; Hợp đồng mua bán hàng hóa; Hợp đồng trao đổi hàng hoá, vi dụ, thương nhãn Việt Nam có thể đổi gạo lấy phân bón, đổi gạo lấy sắt thép với thương nhân của Liên bang Nga…; Mua bán thông qua đấu thấu, đấu giá.
Thứ hai, các loại hợp dổng liên quan đến hoạt động cung cấp các loại dịch vụ khác nhau (hợp đồng trong lĩnh vực thuống mại dịch vụ). Lĩnh vực thương mại d.ich vụở Việt Nam chúng ta hiện nay phát triển còn ởmức độ hết sue khiêm tốn, điểu này cũng có thể thấy được qua việc Luật Thương mại 2005 quy đinh các hành vi thương mại liên quan đến việc cung cấp cãc loại dịch vụ khác nhau. Trong hoạt động thương mại quốc tế có những (oại hình dịch vu có ỷ nghĩa hễt súc quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ hàng hóa cũng như phát triển kình doanh thương mại nói chưng nhưng chưa được Pháp luât Vièt Nam điều chỉnh, ví dụ, các loại hình dịch vụ tài chính. Tuy nhiên củng vói sụ hõi nhập kinh tê quốc tế và nhất là Hiệp định Thướng mại Việt Nam – Hoa Kỷ từng bước có hiệu lực và sau khi Việt Nam gia nhâp WTO loại hinh địch vụ nãy sẽ không thể
thiếu đưọc Irong hoạt động thương mại của nước ta.Trong thương mại quốc tế, hợp đổng liên quan đến thương mại dịch vụ có các loại co bản như sau: Hợp đổng vận tải hàng hoá; Hợp đổng bảo hiểm; Hợp đống gia công sản phẩm; Hợp đồng thuê tài chính; Hợp đổng bao thanh toán; Bảo lãnh ngân hàng…
Thứ ba, các loại hợp đổng thương mại quốc tế liên quan đến viẻc tổ chức kinh doanh ở nước ngoài. Hoạt động thương mai quốc tế là tĩnh vực tương đối mới không những chỉ với Viêt Nam mà còn trong thương mại quôc tế.
Hoạt động thương mại này liên quan một cách hũu cơ với pháp luật vé bảo hộ sỏ hữu tri tuệ, pháp luật chống cạnh tranh. Loại hơp đống này chủ yếu có các loại sau: Hơp đống đại diện thương mại; Hợp đồng chuyển giao công nghệ; Hợp đổng nhượng quyền thương mại (Franchising).
Thứ tư, các hợp đổng thưđng mại quốc tể trong lĩnh vực tổ chức kinh doanh ở nước ngoài. Ví dụ, hợp đổng đại diện thương mại. Trong hoạt động thương mại quốc tế nòi chung và trong hoại dộng thương mai ở nước ta nói riêng, có môt số loại hợp đổng liên quan đến cả thương mại hàng hóa, cả thương mại dịch vụ và cả thương mặi liên quan đến sở hữu trí tuệ, ví dụ, hợp đồng độc quyển phân phối
– Giải quyết tranh chấp:
Điều khoản về giải quyết tranh chấp không phải là điều khoản bắt buộc trong hợp đồng nhưng lại là điều khoản rất quan trọng, thường đi liền với điều khoản về pháp luật áp dụng. Quan hệ thương mại quốc tế càng được mở rộng, khả năng phát sinh tranh chấp càng lớn. Khi xảy ra tranh chấp trong hợp đồng thương mại quốc tế, thì hình thức giải quyết tranh chấp được tiến hành như sau:
– Thương lượng giữa các bên: các bên đương sự cùng trao đổi, thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Kết quả của cuộc thương lượng là tranh chấp có thể giải quyết hoặc không. Thương lượng được tiến hành bằng hai cách: Hai bên trực tiếp gặp nhau đề bàn bạc, thỏa thuận hoặc một bên gửi đơn khiếu nại cho bên kia và bên kia trả lời đơn khiếu nại.
– Hòa giải giữa các bên: Là phương thức giải quyết tranh chấp giữa các bên đương sự thông qua vai trò của người thứ ba. Hòa giải có thể tiến thành bằng hai cách: Một là các bên tự thỏa thuận với nhau về hòa giải, cùng chỉ định hòa giải viên và tiến hành hòa giải mà không bắt buộc phải tuân theo một quy tắc hòa giải nào hết. Hai là các bên thỏa thuận hòa giải theo một quy tắc tố tụng của một tổ chức nghề nghiệp hay một tổ chức trọng tài nào đó, chẳng hạn như quy tắc hòa giải của Phòng thương mại quốc tế (ICC).
– Giải quyết tại Trọng tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế bằng trọng tài có ưu điểm đó là thủ tục đơn giản, có thể thỏa thuận nơi tiến hành xét xử, bảo mật thông tin cho các bên. Tuy nhiên, trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế nếu được các bên thỏa thuận. Thỏa thuận trọng tài có thể là thỏa thuận trong hợp đồng hoặc trong một văn bản riêng biệt, trước khi hoặc sau khi phát sinh tranhchấp. Thỏa thuận phải chỉ định một trung tâm trọng tài cụ thể hoặc một hội đồng trọng tài do các bên thành lập.
– Giải quyết tại Tòa án: Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế bằng tòa án là quyền đương nhiên, các bên tranh chấp không cần phải thỏa thuận. Bên có quyền lợi bị xâm phạm có thể khởi kiện tại tòa án nước mình, tòa án của bên vi phạm hoặc thậm chí tại tòa án của một nước thứ ba, tùy thuộc tòa án của các nước này có thẩm quyền giải quyết loại tranh chấp cụ thể đó không. Thẩm quyền của tòa án cũng có thể được xác lập bởi thỏa thuận của các bên, nếu pháp luật tố tụng của nước đó chấp nhận thỏa thuận này. Tuy nhiên, quyết định của tòa án nước này muốn được thi hành tại một số nước khác thì phải được nước đó công nhận. Bởi vậy, để có thể giải quyết vấn đề tranh chấp một cách thuận tiện nhất thì nên lựa chọn khởi kiện ở nơi mà bản án được thi hành. Tòa án công nhận xem xét việc đáp ứng các điều kiện công nhận, nhưng không bao gồm xem xét lại sự việc.
5. Về mặt kinh tế.
Hợp đồng thương mại quốc tế có giá trị lớn về mặt kinh tế, Có mức dộ phức tạp rất cao thời gian thực hiện rất dài và cũng kèm theo những rủi ro rất cao.
Trích nguồn
Lê Thị Kim Ngân