TIN NỔI BẬT
Nhiều điểm mới trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH Việt NamCông tác kế toán cấp xã: Giải đáp về vị trí việc làm trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấpCơ hội và thách thức khi doanh nghiệp Việt bước vào sân chơi IFRSHành trình đưa Luật Chứng khoán mới từ nghị trường đến thực tiễnBảo hiểm xã hội Việt Nam: Thích ứng với mô hình chính quyền hai cấp để hoạt động hiệu quả hơnChuyển đổi số là “chìa khóa” nâng tầm lĩnh vực Tài chính Việt NamTín dụng hết 9 tháng đã tăng hơn 13%, dự kiến cả năm tăng 19-20%Thận trọng, minh bạch trong giai đoạn thí điểm tài sản sốBổ nhiệm kế toán trưởng, phụ trách kế toán cấp xã trước ngày 31/12Lời Chúc Tết Trung ThuHỗ trợ tối đa hộ kinh doanh trong lộ trình bỏ thuế khoán, áp dụng hóa đơn điện tửTuyển Dụng Kỹ Sư Xây DựngNgân hàng vận hành bằng AI: Cuộc cách mạng đang bắt đầuĐịnh vị vốn dài hạn - thước đo năng lực của ngành Quỹ Việt NamỔn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng quý IV/2025: Khuyến nghị chính sách trọng tâm cho quý cuối nămTuyển dụng Phó Tổng Giám đốcTuyển Dụng Trưởng nhóm Kiểm toán viênTuyển Dụng Thẩm định viênTuyển Dụng Trợ lý Kiểm toán (Làm việc tại TP. Hà Nội)Tuyển Dụng Trợ lý Kiểm toán Đầu tư Xây dựng cơ bản

Nhà đầu tư có vốn đầu tư nước ngoài được áp dụng chế độ kế toán riêng khi hoạt động tại Khu Công nghệ cao không?

 

Nhà đầu tư có vốn đầu tư nước ngoài được áp dụng chế độ kế toán riêng khi hoạt động tại Khu Công nghệ cao không? (hình từ Internet)

Nhà đầu tư có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Khu Công nghệ cao có thể dùng ngoại tệ để thanh toán các khoản phải trả không? Có được áp dụng chế độ kế toán riêng khi hoạt động tại Khu Công nghệ cao? Quy định về năm tài chính áp dụng cho nhà đầu tư có vốn đầu tư nước ngoài tại Khu Công nghệ cao ra sao?

Nhà đầu tư có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Khu Công nghệ cao có thể dùng ngoại tệ để thanh toán các khoản phải trả không?

Căn cứ Điều 26 Quy chế Khu công nghệ cao ban hành kèm theo Nghị định 99/2003/NĐ-CP quy định như sau:

  • Đơn vị tiền tệ
  • Đơn vị tiền tệ sử dụng trong hạch toán, kế toán của các nhà đầu tư trong Khu công nghệ cao là đồng tiền Việt Nam.

Theo đó, đơn vị tiền tệ sử dụng trong hạch toán, kế toán của các nhà đầu tư trong Khu công nghệ cao là đồng tiền Việt Nam.

Đồng thời tại Điều 27 Quy chế Khu công nghệ cao ban hành kèm theo Nghị định 99/2003/NĐ-CP quy định về đồng tiền thanh toán như sau:

  • Đồng tiền thanh toán
  • Nhà đầu tư trong Khu công nghệ cao thực hiện các khoản phải trả, phải nộp vào ngân sách nhà nước, thực hiện việc mua, bán, thanh toán, chuyển nhượng và các quan hệ giao dịch khác bằng đồng tiền Việt Nam.

Chiếu theo quy định này thì nhà đầu tư trong Khu công nghệ cao thực hiện các khoản phải trả, phải nộp vào ngân sách nhà nước, thực hiện việc mua, bán, thanh toán, chuyển nhượng và các quan hệ giao dịch khác bằng đồng tiền Việt Nam.

Như vậy, nhà đầu tư có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Khu Công nghệ cao không thể dùng ngoại tệ để thanh toán các khoản phải trả.

Nhà đầu tư có vốn đầu tư nước ngoài có được áp dụng chế độ kế toán riêng khi hoạt động tại Khu Công nghệ cao?

Căn cứ Điều 28 Quy chế Khu công nghệ cao ban hành kèm theo Nghị định 99/2003/NĐ-CP quy định về chế độ tài chính kế toán tại Khu Công nghệ cao như sau:

  • Chế độ tài chính kế toán
  • Nhà đầu tư trong Khu công nghệ cao thực hiện chế độ tài chính kế toán theo quy định của pháp luật. Nhà đầu tư có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng chế độ kế toán khác với quy định và tiêu chuẩn quốc tế phổ biến phải được Bộ Tài chính chấp thuận và thông báo với Ban Quản lý Khu công nghệ cao trước khi áp dụng.

Quy định này có nêu, nhà đầu tư trong Khu công nghệ cao thực hiện chế độ tài chính kế toán theo quy định của pháp luật.

Cũng theo quy định này thì nhà đầu tư có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng chế độ kế toán khác với quy định và tiêu chuẩn quốc tế phổ biến phải được Bộ Tài chính chấp thuận và thông báo với Ban Quản lý Khu công nghệ cao trước khi áp dụng.

Do đó, nhà đầu tư có vốn đầu tư nước ngoài được áp dụng chế độ kế toán riêng khi hoạt động tại Khu Công nghệ cao khi được Bộ Tài chính chấp thuận và thông báo với Ban Quản lý Khu công nghệ cao trước khi áp dụng.

Quy định về năm tài chính áp dụng cho nhà đầu tư có vốn đầu tư nước ngoài tại Khu Công nghệ cao ra sao?

Tại Điều 29 Quy chế Khu công nghệ cao ban hành kèm theo Nghị định 99/2003/NĐ-CP quy định về năm tài chính như sau:

  • Năm tài chính
  • 1. Năm tài chính được tính theo năm dương lịch từ ngày 01 tháng 01 đến hết ngày 31 tháng 12 hàng năm. Riêng năm tài chính đầu tiên được tính từ ngày cấp Giấy phép đầu tư đến hết ngày 31 tháng 12 năm đó.
  • 2. Nhà đầu tư trong Khu công nghệ cao có vốn đầu tư nước ngoài có thể áp dụng năm tài chính 12 tháng không trùng với năm dương lịch, nhưng phải được Bộ Tài chính chấp thuận và thông báo với Ban Quản lý Khu công nghệ cao trước khi áp dụng.

Theo đó, năm tài chính được tính theo năm dương lịch từ ngày 01 tháng 01 đến hết ngày 31 tháng 12 hàng năm. Riêng năm tài chính đầu tiên được tính từ ngày cấp Giấy phép đầu tư đến hết ngày 31 tháng 12 năm đó.

Đối với nhà đầu tư trong Khu công nghệ cao có vốn đầu tư nước ngoài có thể áp dụng năm tài chính 12 tháng không trùng với năm dương lịch, nhưng phải được Bộ Tài chính chấp thuận và thông báo với Ban Quản lý Khu công nghệ cao trước khi áp dụng.

Như vậy, nhà đầu tư có vốn đầu tư nước ngoài tại Khu Công nghệ cao có thể áp dụng năm tài chính 12 tháng không trùng với năm dương lịch, nhưng phải được Bộ Tài chính chấp thuận và thông báo với Ban Quản lý Khu công nghệ cao trước khi áp dụng.

Đồng thời tại Điều 30 Quy chế Khu công nghệ cao ban hành kèm theo Nghị định 99/2003/NĐ-CP và Điều 31 Quy chế Khu công nghệ cao ban hành kèm theo Nghị định 99/2003/NĐ-CP có quy định về báo cáo tài chính và quản lý ngoại hối tại Khu Công nghệ cao được thực hiện như sau:

  • Điều 30. Báo cáo tài chính
  • Nhà đầu tư trong Khu công nghệ cao lập và nộp báo cáo tài chính kế toán năm cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo chế độ báo cáo đã được chấp thuận.
  • Điều 31. Quản lý ngoại hối
  • Việc quản lý ngoại hối đối với nhà đầu tư trong Khu công nghệ cao được thực hiện theo quy định quản lý ngoại hối của Việt Nam.

Trích nguồn

Phạm Thị Xuân Hương