Trong các ngày từ 17-21/10, Đoàn công tác Tổng cục Thuế do Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Việt Nam Cao Anh Tuấn dẫn đầu tham dự Hội nghị SGATAR thường niên lần thứ 51 tại Kuala Lumpur – Malaysia. Tham dự tại Hội nghị có 18 đoàn cơ quan thuế các nước; đại diện một số tổ chức quốc tế được mời tham dự gồm: ADB, OECD, CIAT, IMF,…
Tổng cục trưởng Cao Anh Tuấn và ông Datuk Dr Mohd Nizom Sairi – Tổng cục trưởng Cục thu nội địa Malaysia.
Trao đổi kinh nghiệm về công tác quản lý thuế giữa Việt Nam và Malaysia
Trong khuôn khổ bên lề Hội nghị, sáng ngày 18/10, Tổng cục trưởng Cao Anh Tuấn đã có buổi làm việc song phương với ông Datuk Dr Mohd Nizom Sairi – Tổng cục trưởng Cục thu nội địa Malaysia.
Cùng tham dự buổi làm việc có các thành viên trong Đoàn là đại diện lãnh đạo một số Cục, Vụ thuộc Tổng cục Thuế Việt Nam. Về phía Cơ quan thuế Malaysia có sự tham gia của ông Datuk Mohd Jaafar Embong, Phó Tổng cục trưởng (phụ trách CS thuế); ông Che Muhammad Sukri Che Hussin, Vụ trưởng Vụ Tuân thủ thuế; bà Esther A. P. Koisin, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế.
Về phía Cơ quan thuế Malaysia có sự tham gia của ông Datuk Mohd Jaafar Embong, Phó Tổng cục trưởng (phụ trách CS thuế); ông Che Muhammad Sukri Che Hussin, Vụ trưởng Vụ Tuân thủ thuế; bà Esther A. P. Koisin, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế.
Tại buổi làm việc, hai bên đã có sự trao đổi về thực tế quản lý thuế của mỗi nước đặc biệt là những khó khăn trong giai đoạn sau đại dịch Covid-19.
Trao đổi về hoạt động kinh doanh trên nền tảng kỹ thuật số tại Việt Nam, Tổng cục trưởng Cao Anh Tuấn cho biết, xuất phát từ tình hình thực tiễn và yêu cầu công tác quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh kỹ thuật số của các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp dịch vụ xuyên biên giới vào Việt Nam, Bộ Tài chính đã chỉ đạo cơ quan Thuế Việt Nam nghiên cứu đưa vào Luật Quản lý thuế.
Tổng cục trưởng Cao Anh Tuấn và các thành viên Đoàn công tác Tổng cục Thuế Việt Nam.
Theo đó, quy định trách nhiệm quản lý của cơ quan thuế; nghĩa vụ của doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác tại Việt Nam. Đến nay, đã có khoảng 40 nhà cung cấp nước ngoài lớn đã đăng ký thuế, kê khai thuế và nộp thuế và trực tiếp đăng ký thuế, kê khai thuế và nộp thuế tại Cổng thông tin điện tử dành cho nhà cung cấp nước ngoài do Bộ Tài chính quản lý.
Liên quan đến công tác quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử trong nước, Tổng cục trưởng Cao Anh Tuấn cho rằng thương mại điện tử ngày càng phát triển với sự đa dạng về hình thức, đối tượng tham gia,… đã đặt ra nhưng thách thức mới cho công tác quản lý thuế.
Tại buổi làm việc, một số nội dung đã được cơ quan thuế hai nước trao đổi như: đối với Malaysia, hình thức kinh doanh mà các tổ chức/cá nhân thực hiện các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ thông qua các website/app thương mại điện tử (sàn giao dịch thương mại điện tử) có phổ biến không; cơ quan thuế Malaysia quản lý thuế đối với các tổ chức/cá nhân kinh doanh thông qua sàn giao dịch này như thế nào; ở Malaysia cơ quan thuế có kiểm soát dòng tiền và các giao dịch mua bán hàng hóa thông qua hoạt động kinh doanh thương mại điện tử để phục vụ cho việc quản lý thu thuế không và việc kiểm soát thực hiện như thế nào;…
Theo ông Datuk Dr Mohd Nizom Sairi – Tổng cục trưởng Cục thu nội địa Malaysia cho rằng, việc hợp tác trao đổi trong việc hoàn thiện thể chế pháp lý, chính sách thuế đảm bảo bao quát tránh thất thu thuế là một yêu cầu cấp thiết, vì vậy việc chia sẻ kinh nghiệm trong thực tiễn quản lý thuế là hết sức cần thiết.
Diễn đàn SGATAR luôn đem lại những kinh nghiệm quý về công tác quản lý thuế của các quốc gia và sẽ được
Đoàn công tác Việt Nam trao đổi và nghiên cứu để thúc đẩy hiện đại hóa, số hóa công tác quản lý thuế.
Bên cạnh đó, cơ quan thuế hai nước cần tăng cường chia sẻ kỹ năng, phương thức kiểm tra xác định cơ sở thường trú của nhà cung cấp nước ngoài tiến hành hoạt động kinh doanh thương mại điện tử và kỹ thuật số khi chưa tham gia Hiệp định đa phương MLC (Trụ cột 1).
Từ đó, cơ quan thuế hai nước cần nghiên cứu, áp dụng giải pháp Trụ cột 1 – Phân bổ quyền đánh thuế đối với thu nhập của các công ty đa quốc gia có hoạt động kinh doanh kỹ thuật số – và đề xuất lên hai Chính phủ về việc xem xét quyết định tham gia ký kết Hiệp định trên cơ sở phân tích và đánh giá tác động đối với hai nước Malaysia và Việt Nam.
Tăng cường phối hợp về ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong quản lý thuế
Chiều cùng ngày (18/10), ông Mai Sơn, Cục trưởng Cục Thuế TP. Hà Nội – Trưởng đoàn khảo sát về thuế và các thành viên trong đoàn đã có buổi làm việc song phương với Cơ quan thuế Úc. Về phía cơ quan Thuế Úc có ông Hector Thompson – Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế và Xây dựng năng lực và Minh bạch; bà Belinda Darling, Trợ lý Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Xây dựng năng lực và Minh bạch.
Tại buổi làm việc, nội dung về ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong phân tích rủi ro để xác định đối tượng rủi ro trong quản lý thuế đã được cơ quan quan thuế hai nước thảo luận. Trong đó, vấn đề ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong phân tích rủi ro để xác định đối tượng rủi ro trong quản lý thuế được trao đổi, nhất là các bước thực hiện phân tích dữ liệu để nhận diện rủi ro người nộp thuế.
Theo ông Mai Sơn, Cục trưởng Cục Thuế TP. Hà Nội chia sẻ, từ ngày 1/7/2022, Việt Nam triển khai việc sử dụng hóa đơn điện tử. Với các giao dịch kinh doanh ngày càng tăng, dữ liệu hóa đơn điện tử là nguồn dữ liệu lớn (big data), các kỹ thuật phân tích dữ liệu lớn được nghiên cứu để áp dụng, như: Phát hiện bất thường trong dữ liệu lớn với các kỹ thuật phân cụm tìm sự khác biệt (thuật toán K-means, Dbscan, Isolation forest…)
Trong đó, việc phân tích dữ liệu, phát hiện các mối quan hệ giữa các đối tượng bằng cách áp dụng mô hình xác suất đồ thị (mạng Bayes, trường Markov ngẫu nhiên) với luật kết hợp (association rule) sẽ được cơ quan thuế Việt Nam phân tích trên thông tin mua bán trên dữ liệu hóa đơn điện tử để phát hiện các chuỗi mua bán hoặc phát hiện ra hiện tượng lặp lại trong dữ liệu.
Tại buổi trao đổi song phương, một số nội dung đã được Đoàn khảo sát về thuế và Vụ Hợp tác quốc tế và Xây dựng năng lực và Minh bạch – Cơ quan Thuế Úc trao đổi thảo luận. Đó là việc cơ quan thuế Úc áp dụng AI trong những trường hợp phân tích rủi ro nào. Sử dụng những kỹ thuật AI nào.
Đồng thời, việc phối hợp giữa phân tích rủi ro theo AI với các phương pháp phân tích khác thế nào (phương pháp phân tích khác như phân tích theo kinh nghiệm chuyên gia, phân tích theo tiêu chí cụ thể…). Trong đó, khi phân tích, đánh giá rủi ro, cơ quan thuế Úc thực hiện trên phạm vi dữ liệu cả nước hay theo vùng/miền. Theo đó tại Úc, khi xác định các giá trị trung bình ngành theo một số tiêu chí, thực hiện tính trung bình trên dữ liệu cả nước hay theo vùng/miền…
Đối với định hướng ứng dụng Trí tuệ nhân tạo (AI) trong phân tích rủi ro để xác định đối tượng rủi ro trong quản lý thuế trong thời gian tới, ông Mai Sơn cho rằng, để triển khai toàn diện hệ thống phân tích dữ liệu và quản lý rủi ro đáp ứng việc phân tích, khai thác, sử dụng dữ liệu áp dụng các giải pháp công nghệ, kỹ thuật hiện đại, phù hợp với yêu cầu quản lý rủi ro (QLRR) trong quản lý thuế và nhu cầu khai thác dữ liệu lớn, cần thiết xây dựng phương án kỹ thuật chi tiết, đảm bảo khả thi, phù hợp với hệ thống hiện có.
“Tổng cục Thuế Việt Nam đã nghiên cứu yêu cầu nghiệp vụ phù hợp với thông lệ quốc tế về quản lý rủi ro tuân thủ và các kỹ thuật công nghệ tiên tiến, đề xuất hệ thống Ứng dụng PTDL & QLRR đến đầu năm 2024 sẽ triển khai, đảm bảo quản lý rủi ro trên cơ sở tập trung dữ liệu đầy đủ cho phân tích rủi ro (bao gồm dữ liệu hóa đơn điện tử và dữ liệu quản lý thuế khác).” – ông Mai Sơn chia sẻ.
Trích nguồn
Thanh Thanh