TIN NỔI BẬT
CPA VIETNAM Chúc Mừng Ngày Doanh nhân Việt Nam 13/10Nhiều điểm mới trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH Việt NamCông tác kế toán cấp xã: Giải đáp về vị trí việc làm trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấpCơ hội và thách thức khi doanh nghiệp Việt bước vào sân chơi IFRSHành trình đưa Luật Chứng khoán mới từ nghị trường đến thực tiễnBảo hiểm xã hội Việt Nam: Thích ứng với mô hình chính quyền hai cấp để hoạt động hiệu quả hơnChuyển đổi số là “chìa khóa” nâng tầm lĩnh vực Tài chính Việt NamTín dụng hết 9 tháng đã tăng hơn 13%, dự kiến cả năm tăng 19-20%Thận trọng, minh bạch trong giai đoạn thí điểm tài sản sốBổ nhiệm kế toán trưởng, phụ trách kế toán cấp xã trước ngày 31/12Lời Chúc Tết Trung ThuHỗ trợ tối đa hộ kinh doanh trong lộ trình bỏ thuế khoán, áp dụng hóa đơn điện tửTuyển Dụng Kỹ Sư Xây DựngNgân hàng vận hành bằng AI: Cuộc cách mạng đang bắt đầuĐịnh vị vốn dài hạn - thước đo năng lực của ngành Quỹ Việt NamỔn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng quý IV/2025: Khuyến nghị chính sách trọng tâm cho quý cuối nămTuyển dụng Phó Tổng Giám đốcTuyển Dụng Trưởng nhóm Kiểm toán viênTuyển Dụng Thẩm định viênTuyển Dụng Trợ lý Kiểm toán (Làm việc tại TP. Hà Nội)

Xử lý tình trạng trốn thuế của các doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay

 

Xử lý nghiêm đối với những hành vi trốn thuế nhằm hạn chế tình trạng thất thu ngân sách

Xử lý nghiêm đối với những hành vi trốn thuế nhằm hạn chế tình trạng thất thu ngân sách

Hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế – xã hội, tình trạng trốn thuế của doanh nghiệp đang diễn ra ngày càng phức tạp, phạm vi ngày càng rộng, quy mô ngày càng lớn với những thủ đoạn rất tinh vi. Thực trạng đó đòi hỏi cần phải xử lý nghiêm đối với những hành vi này nhằm hạn chế tình trạng thất thu ngân sách, đảm bảo công bằng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bài viết đề cập đến tình trạng trốn thuế của các doanh nghiệp, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế tình trạng này trong thời gian tới.

Đặt vấn đề

Trong những năm gần đây, hiện tượng trốn thuế của doanh nghiệp (DN) tại Việt Nam diễn ra phổ biến, phức tạp, thủ đoạn tinh vi. Số hành vi đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm khá nhiều, tuy nhiên số đối tượng bị phát hiện và truy cứu trách nhiệm hình sự còn rất hạn chế. Mặc dù, Nhà nước liên tục đưa ra các biện pháp đấu tranh phòng, chống hành vi trốn thuế, nhưng hiệu quả chưa đạt được như kỳ vọng. Số lượng hành vi vi phạm dẫn đến thất thu thuế hàng năm vẫn lên đến hàng nghìn tỷ đồng.

Từ điển Cambridge định nghĩa: “Trốn thuế là những cách thức bất hợp pháp mà các cá nhân hoặc DN sử dụng để giảm số thuế phải nộp”. Tác giả Julia Kagan (2019) cho rằng, trốn thuế là một hoạt động bất hợp pháp, trong đó một người hoặc tổ chức cố tình “tránh” phải trả một nghĩa vụ thuế thực sự. Ví dụ: Bán hàng không xuất hoá đơn để giảm doanh thu hay tạo ra những thông tin không có thật, mua hoá đơn để tăng chi phí nhằm khấu trừ thuế, tạo các hồ sơ giả để được hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT)… Đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý nền kinh tế chặt chẽ của Nhà nước.

Tuy nhiên, cần phân biệt trốn thuế và tránh thuế. Trốn thuế trong mọi trường hợp là bất hợp pháp và được thực hiện một cách cố ý, bởi người nộp thuế trong khi tránh thuế là việc sử dụng các phương pháp hợp pháp nhằm giảm số tiền thuế phải nộp – như ghi nhận các khoản khấu trừ hoặc sử dụng lá chắn như khấu hao hay chi phí lãi vay.

Có thể thấy rằng, trốn thuế là một hiện tượng kinh tế – xã hội phức tạp, ảnh hưởng không những tới Việt Nam mà hầu hết các quốc gia trên thế giới bởi thuế là nguồn thu quan trọng điều tiết kinh tế đất nước. Như vậy, đấu tranh phòng, chống tình trạng trốn thuế nói chung và tình trạng trốn thuế của các DN Việt Nam nói riêng là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Xuất phát từ vấn đề trên, tác giả cho rằng, cần nghiên cứu về thực trạng tình trạng trốn thuế tại nước ta hiện nay, từ đó có các giải pháp nhằm xử lý triệt để tình trạng này.

Điều 17, Nghị định số 125/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ và Điều 13, Thông tư số 166/2013/TT-BTC ngày 15/11/2013 của Bộ Tài chính đã quy định rõ các hành vi trốn thuế, gian lận thuế của DN. Tuy nhiên, tình trạng trốn thuế, gian lận thuế thời gian qua diễn ra vẫn khá phổ biến, không chỉ tại các DN mà còn ở mọi thành phần kinh tế. Những hành vi mà DN thực hiện gian lận thuế, trốn thuế bị phát hiện bao gồm: Bán hàng không có hóa đơn, kê khai lỗ nhiều năm liên tiếp, mua bán hóa đơn khống.

Đặc biệt, tình trạng DN bán hàng không xuất hóa đơn diễn ra rất phổ biến. Việc quy định xuất hóa đơn kèm hàng bán chưa là đòi hỏi bắt buộc đối với DN và nhất là với khách hàng đã tạo kẽ hở cho DN kê khai giảm doanh thu bán hàng, từ đó giảm lợi nhuận và tránh được thuế thu nhập DN. Bên cạnh đó, khi xuất hóa đơn, DN kê khai giảm giá trị hàng bán thấp hơn so với giá trị thực tế mà khách hàng thanh toán cũng là hành vi trốn thuế của DN và của chính khách hàng, chủ yếu đối với tài sản có giá trị như ô tô, nhà, đất, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại điện tử.

Thực trạng trốn thuế của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

Theo số liệu của Tổng cục Thuế, trong giai đoạn 2013-2021, các cơ quan thanh tra, kiểm tra thuế đã phát hiện tổng số 642.423 DN vi phạm thuế thu nhập DN (TNDN) với tổng số thuế TNDN thu về là 35.922,09 tỷ đồng và giảm lỗ là 185.002,2 tỷ đồng. Trong suốt giai đoạn này, số DN vi phạm tăng mạnh, từ 31.759 DN năm 2013 lên 103.211 DN năm 2020 và 95.936 DN năm 2021; lượng giảm lỗ tăng mạnh, từ 10.841,9 tỷ đồng năm 2013 lên 40.914,56 tỷ đồng năm 2021, qua đó góp phần làm tăng số thuế thu về cho NSNN từ 1.783,07 tỷ đồng năm 2013 lên 7.144,73 tỷ đồng năm 2021.

Trong những năm gần đây, các cơ quan thuế đã phát hiện những sai phạm thường gặp ở các sắc thuế như thuế GTGT, thuế TNDN, thu nhập cá nhân và các sắc thuế khác dẫn đến thất thu lớn. Các hành vi gian lận thuế ngày càng diễn biến phức tạp, với quy mô ngày càng lớn và phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi như sau:

Thứ nhất, đối với thuế GTGT, người nộp thuế thường khai sai hoặc thiếu thuế GTGT đầu ra thông qua việc không hạch toán đầy đủ, kịp thời các khoản doanh thu, ghi giá bán trên hóa đơn thấp hơn giá bán thực tế, hoặc không xuất hóa đơn GTGT đối với hàng hóa dùng để biếu tặng.

Những hành vi này thường xảy ra ở các DN hoạt động trong các lĩnh vực bán lẻ thường sử dụng tiền mặt như dịch vụ ăn uống, kinh doanh nhà hàng, khách sạn, xăng dầu, xây dựng, trang trí nội thất, kinh doanh xe gắn máy, xe điện, ô–tô, xe phục vụ công trình… Đồng thời, người nộp thuế thường kê khai tăng thuế GTGT đầu vào thông qua việc lập chứng từ khống để hoàn thuế GTGT, mua khống hóa đơn thuế GTGT đầu vào từ các DN “ma”. Hiện tượng chiếm đoạt tiền thuế này thường gặp ở các DN hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nông lâm sản.

Bên cạnh đó, tình trạng người nộp thuế kê khai thiếu doanh thu, xác định sai chi phí, từ đó tính thiếu thuế GTGT, thuế TNDN và lợi nhuận còn lại phải nộp NSNN, nợ thuế vẫn diễn ra phổ biến và không có dấu hiệu thuyên giảm. Đối với thuế TNDN, người nộp thuế thường xác định thiếu hoặc không đúng doanh thu tính thuế TNDN, hạch toán vào chi phí các khoản chi không đúng quy định khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN bằng nhiều hình thức; kê khai các khoản miễn giảm thuế TNDN không đúng, chuyển giá hoặc kê khai mua bán lỗ, chậm nộp thuế, nợ thuế.

Chẳng hạn, không ít hợp đồng khai giá bán bằng giá vốn, không phát sinh như trường hợp Tổng Công ty cổ phần Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco), qua kiểm toán phát hiện DN này trốn thuế qua chuyển giá nội bộ. Cụ thể, Sabeco gồm 2 nhà máy hạch toán phụ thuộc, các công ty con và công ty liên kết.

Các đơn vị sản xuất bán sản phẩm bia Sài Gòn cho Công ty TNHH MTV Thương mại Bia Sài Gòn (công ty con 100% vốn của Tổng Công ty). Công ty này lại tiếp tục bán sản phẩm cho 10 công ty cổ phần thương mại khu vực có vốn góp từ 90–94,92% nên không phải nộp thuế; hoặc kê khai giá bán chỉ nhỉnh hơn một chút so với giá vốn, lợi nhuận thấp nên tiền thuế phải đóng cũng thấp, mặc dù giá trị giao dịch rất lớn. Các công ty thương mại khu vực sau đó bán tiếp sản phẩm cho đại lý cấp 1, cấp 2, cấp 3… là các cơ sở kinh doanh thương mại độc lập.

Theo Hà An (2020), mô hình tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm phức tạp này của Sabeco gây khó cho cơ quan thuế trong việc xác định giá ở mốc thời điểm chính xác trong chuỗi bán hàng của Sabeco để tính thuế. Kết quả kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước kết luận, theo quy định tại Thông tư số 05/2012/TT–BTC của Bộ Tài chính, Sabeco phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt dựa trên giá bán ra của các công ty thương mại khu vực – đơn vị trực tiếp bán hàng ra khỏi hệ thống của Sabeco chứ không phải giá bán của Sabeco ra công ty thương mại. Theo đó, Sabeco phải nộp thêm vào ngân sách hơn 408 tỷ đồng.

Thứ hai, DN thực hiện chuyển nhượng nhưng không khai báo thu nhập phát sinh. Không ít DN hoạt động chuyển nhượng không khai báo nộp thuế cho cơ quan thuế, mà các bên liên quan chỉ làm thủ tục đăng ký thay đổi tên của người đại diện trước pháp luật, tên của các thành viên và tỷ lệ góp vốn không thay đổi như chưa bao giờ xảy ra việc chuyển nhượng.

Thời gian qua, thông qua công tác thanh tra kiểm tra, ngành Thuế đã phát hiện hàng chục nghìn DN vi phạm thuế TNDN với số tiền thuế thu về có thể lên tới nhiều nghìn tỷ đồng mỗi năm. Đặc biệt, hiện tượng trốn và tránh thuế có xu hướng ngày càng gia tăng. Hậu quả là, bất chấp số lượng và quy mô DN trong nền kinh tế tăng rất nhanh, nhưng thuế TNDN thu về tăng không tương xứng cả về số lượng cũng như tỷ trọng trong thu NSNN. Hiện tượng vi phạm thuế không chỉ diễn ra ở các tập đoàn đa quốc gia, mà còn ở cả DN tư nhân trong nước; không chỉ diễn ra ở các DN quy mô lớn mà còn ở cả các DN quy mô vừa và nhỏ.

Thứ ba, các DN còn tồn tại hai hệ thống sổ kế toán. Một hệ thống sổ kế toán nội bộ phản ánh đầy đủ các giao dịch kinh tế để Nhà nước quản lý theo dõi hoạt động của DN, một hệ thống sổ kế toán khác chỉ phản ảnh một phần các giao dịch kinh tế mà các DN thấy cần thiết để khai thác thuế.

Thứ tư, ghi giá bán trên hóa đơn và kê khai doanh thu tính thuế thấp hơn giá khách hàng thực tế thanh toán nhằm làm giảm thuế GTGT và thuế TNDN phải nộp, gây ảnh hưởng đến số thu NSNN.

Thứ năm, cố ý hạch toán kế toán “nhầm” so với quy định để giấu doanh thu tính thuế, hạch toán tăng chi phí tính thuế TNDN và tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Khi bị phát hiện thì cán bộ kế toán lấy cớ là hạch toán nhầm.

Thứ sáu, DN xuất khẩu, nhập khẩu khai sai mã hàng hóa, sai tên hàng hóa, chủng loại hàng hóa nhập khẩu nhằm giảm số thuế phải nộp do lợi dụng sự quản lý có hạn của hải quan. Bên cạnh đó, gian lận thuế trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu còn thể hiện qua giá tính thuế: khai báo thấp trị giá đối với những mặt hàng chịu thuế suất cao, chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, những mặt hàng hay biến động về giá. Lợi dụng việc áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt đối với các hàng hóa có xuất xứ từ các nước, vùng lãnh thổ, khu vực thị trường đã có thỏa thuận ưu đãi tối huệ quốc hay ưu đãi đặc biệt với Việt Nam, các DN cố tình khai sai xuất xứ hàng hóa nhập khẩu và làm các giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) giả để được hưởng các mức thuế suất ưu đãi.

Thứ bảy, tình trạng tồn tại các giao dịch bằng tiền mặt, cộng với sự nở rộ của các dịch vụ chia sẻ như dịch vụ lưu trú Airbnb hay dịch vụ vận chuyển Grab, các trang thương mại điện tử với nhiều tài khoản kinh doanh như: Lazada, Tiki, Shopee…; các dịch vụ quảng cáo trực tuyến của Google, Yahoo, Youtube… tạo ra nhiều nguy cơ trốn thuế. Theo Nguyễn Đăng Khoa (2020), các luật thuế hiện tại quy định giao dịch thanh toán dưới 20 triệu đồng có thể dùng tiền mặt thì vẫn được khấu trừ thuế hay tính và chi phí được trừ, nhưng các giao dịch cá nhân như mua bán, chuyển nhượng tài sản, trả thù lao không theo hợp đồng lao động thì rất khó kiểm soát. Các giao dịch chia sẻ có thể không được ghi nhận hoặc xóa bỏ sau khi thực hiện. Doanh thu của các dịch vụ quảng cáo trực tuyến, bán hàng trực tuyến cũng không được khai báo hoặc khai báo không đúng với thực tế, các dữ liệu giao dịch có thể bị sửa đổi hoặc xóa bỏ sau khi thực hiện…

Thứ tám, dự chi chi phí: Khi làm báo cáo quyết toán năm, các DN được phép dự chi những chi phí hợp lý, hợp lệ của năm tài chính đó phải chi nhưng chưa chi. Thường các DN sau khi xem xét toàn bộ quyết toán thấy lợi nhuận cao đã tìm mọi lý do để dư chi, chi phí lưu thông giả nhằm tăng chi phí để giảm thu nhập trước thuế.

Thứ chín, trích khấu hao tài sản cố định: Theo đó, khi thấy lợi nhuận cao, DN điều chỉnh mức khấu hao tài sản cố định cao hơn so với năm trước, tuy nhiên không vượt quá mức quy định của Nhà nước làm cho chi phí tăng, lợi nhuận chịu thuế giảm…

Nguyên nhân của tình trạng trốn thuế

Theo Robert W.McGee and Tatyana B. Maranjyan (2006), nguyên nhân của tình trạng gian lận, trốn thuế bao gồm các yếu tố: Sự tồn tại của nền kinh tế ngầm (shadow economic); Sự tham nhũng; Vai trò quản lý yếu kém của các cơ quan thực thi pháp luật; Thiếu thốn kinh phí, nhân lực, kỹ thuật và công nghệ trong quản lý thuế. Hành vi gian lận thuế luôn tồn tại trong nền kinh tế, bất chấp những nỗ lực ngăn chặn của Nhà nước. Một số nguyên nhân cơ bản về hành vi gian lận thuế gây thất thu và thất thoát cho NSNN là:

Thứ nhất, về số lượng cán bộ công chức thuế: Do số lượng còn hạn chế nên chưa bao quát hết được tình trạng nộp thuế của các DN và DN có hành vi trốn thuế và hiện tượng gian lận thuế ngày càng tinh vi. Trong khi đó, tỷ lệ văn bản tồn đọng chưa giải quyết còn cao, dẫn đến công tác giải đáp vướng mắc chưa kịp thời.

Thứ hai, phẩm chất chính trị, sự suy thoái về đạo đức, lối sống của các cán bộ đã tạo điều kiện cho việc gian lận và trốn thuế của các DN.

Thứ ba, lợi dụng sự thông thoáng trong chính sách quản lý, sử dụng hóa đơn, không ít DN đã thực hiện mua bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp, khấu trừ thuế GTGT, chiếm đoạt tiền hoàn thuế.

Thứ tư, việc mua bán hóa đơn thu lợi bất chính cho các DN diễn ra rất nhiều do việc quản lý hóa đơn chưa chặt chẽ.

Giải pháp hạn chế trốn thuế, gian lận thuế

Nhằm hạn chế tình trạng trốn thuế, trong thời gian tới cần tập trung triển khai giải pháp cơ bản mang tính nguyên tắc như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện chính sách thuế nói chung và các văn bản pháp luật về thuế nói riêng. Theo đó, mục tiêu của giải pháp này là đảm bảo có được hệ thống thuế thống nhất, phù hợp, vừa đáp ứng yêu cầu về nguồn thu NSNN, yêu cầu quản lý kinh tế của Nhà nước, vừa phù hợp với khả năng đóng góp của các chủ thể trong nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh tăng trưởng tăng thu nhập của dân cư. Đồng thời, hệ thống thuế phải đạt được các yêu cầu về công bằng, rõ ràng, minh bạch, tạo thuận lợi cho người nộp thuế. Nội dung này sẽ tác động trực tiếp làm giảm các áp lực về gánh nặng thuế để dẫn đến hành vi gian lận thuế, đồng thời ngăn chặn các cơ hội hay khả năng có thể gian lận thuế của nười nộp thuế, giảm chi phí quản lý, chi phí tuân thủ, từ đó góp phần nâng cao mức độ tuân thủ pháp luật, hạn chế hành vi gian lận thuế của người nộp thuế.

Trong giai đoạn 2013-2021, các cơ quan thanh tra, kiểm tra thuế đã phát hiện 642.423 doanh nghiệp vi phạm với tổng số thuế thu nhập doanh nghiệp vi phạm được thu về là 35.922,09 tỷ đồng và giảm lỗ là 185.002,2 tỷ đồng. Trong giai đoạn này, số doanh nghiệp vi phạm tăng mạnh, từ 31.759 doanh nghiệp năm 2013 lên 95.936 doanh nghiệp năm 2021.

Thứ hai, tăng cường nắm bắt thông tin về người nộp thuế: Cơ sở dữ liệu về người nộp thuế là các thông tin rất quan trọng đối với công tác quản lý thuế. Hệ thống thông tin về người nộp thuế giúp cho các cơ quan quản lý thuế nắm bắt được tình hình thành lập, hoạt động và chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế, từ đó có các giải pháp cụ thể đối với từng trường hợp khác nhau, nâng cao hiệu quả quản lý thuế, hạn chế các hành vi gian lận của người nộp thuế. Hệ thống thông tin về người nộp thuế cũng là cơ sở để cơ quan thuế và cơ quan hải quan áp dụng có hiệu quả kỹ thuật quản lý rủi ro vào hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế.

Thứ ba, liên tục cập nhập các thủ đoạn gian lận thuế: Việc nhận diện các hành vi, thủ đoạn gian lận thuế của người nộp thuế là cơ sở để cơ quan quản lý thuế ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp gian lận thuế. Trong trường hợp ngày càng phát sinh nhiều loại hình sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, nhiều phương thức giao dịch như hiện nay, các thủ đoạn gian lận thuế cũng không ngừng gia tăng, ngày càng đa dạng, tinh vi, nên việc cập nhập, nhận biết các thủ đoạn gian lận, phục vụ cho công tác quản lý thuế là rất cần thiết.

Thứ tư, nâng cao hiệu quả quản lý thuế, chú trọng công tác kiểm tra, thanh tra thuế và hiệu lực của các biện pháp cưỡng chế, xử lý vi phạm về thuế: Hiệu lực, hiệu quả của quản lý thuế nói chung và công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về thuế nói riêng là yếu tố trực tiếp nhất tác động đến ý thức và khả năng thực hiện hành vi gian lận của người nộp thuế trong tuân thủ pháp luật thuế. Trong đó, hoạt động thanh tra, kiểm tra vừa có tác dụng giám sát, đánh giá quá trình tuân thủ vừa có tác dụng ngăn ngừa, răn đe và xử lý các trường hợp gian lận thuế. Xử lý vi phạm, cưỡng chế thuế nghiêm minh, công bằng cũng sẽ làm hạn chế các hành vi gian lận về thuế.

Thứ năm, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế; nâng cao ý thức tuân thủ của người nộp thuế kết hợp với hỗ trợ người nộp thuế trong tuân thủ pháp luật thuế: Đây được coi là nội dung tiền đề rất quan trọng trong công tác quản lý thuế, đi sâu vào giải quyết các nguyên nhân dẫn đến các hành vi gian lận thuế xuất phát từ nhân tố ý thức của người nộp thuế. Hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế, hạn chế các hành vi gian lận thuế thông qua việc giúp cho họ hiểu rõ các quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm về thuế của mình theo quy định của pháp luật và hiểu rõ các quy định trong các văn bản pháp luật thuế cũng như cách xác định nghĩa vụ thuế để có thể thực hiện việc tuân thủ pháp luật thuế thuận lợi nhất.

Thứ sáu, nâng cao năng lực và phẩm chất của công chức quản lý thuế: Năng lực, phẩm chất, đạo đức của công chức quản lý thuế là yếu tố có tác động không nhỏ đến ý thức chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế và khả năng gian lận thuế của họ. Nội dung này tác động trực tiếp đến nhân tố cơ hội và áp lực nêu trên. Trong môi trường làm việc mà công chức thuế mẫu mực, liêm chính, thủ tục công khai, rõ ràng thì ý thức tuân thủ của người nộp thuế sẽ được đảm bảo các hành vi gian lận sẽ khó có cơ hội thực hiện và ngược lại.

Thứ bảy, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người nộp thuế trong việc thực hiện tuân thủ pháp luật thuế. Đồng thời, việc kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện của công chức thuế, của người nộp thuế cần phải tiến hành thường xuyên và chặt chẽ để đảm bảo hiệu quả công tác và hạn chế các tiêu cực, gian lận.

Thứ tám, cần tham khảo, học hỏi, rút kinh nghiệm quốc tế về chống gian lận thuế: Chẳng hạn, phòng, chống gian lận thuế GTGT thông qua công tác quản lý hoàn thuế GTGT, ở một số nước có quy định là số thuế GTGT đầu vào  chưa được khấu trừ hết trong một kì bắt buộc phải được chuyển sang kì tính thuế tiếp theo như: Thái Lan, Ba Lan, Chi Lê; bù trừ vào các nghĩa vụ thuế khác; yêu cầu kiểm toán trước khi hoàn thuế như Indonesia; Pháp, Singapore lại quy định ngưỡng thuế đầu vào để được hoàn thuế; hoàn thuế ở mức thấp hơn. Trung Quốc quy định tỷ lệ số thuế GTGT đầu ra được hoàn thấp hơn số thuế GTGT đầu vào và tỷ lệ này được xác định theo từng nhóm hàng hóa khác nhau…

Thứ chín, đến nay, tất cả các DN đều phải sử dụng hóa đơn điện tử. Có thể đánh giá rằng, hóa đơn điện tử đã phát huy mạnh mẽ vai trò của nó trong việc hạn chế tình trạng trốn thuế TNDN. Mặc dù vậy, tình hình chuyển đổi sang áp dụng hóa đơn điện tử ở các địa phương còn gặp khó khăn do phần lớn DN ở Việt Nam là DN nhỏ và vừa, siêu nhỏ nên trình độ ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế. Tuy nhiên, biện pháp này phải kết hợp với việc kiểm soát các giao dịch trực tuyến, nhất là của các DN kinh doanh dịch vụ chia sẻ hay quảng cáo trực tuyến. Hơn nữa, Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn hiện nay đã phát huy vai trò và ưu thế của hóa đơn điện tử. Do vậy, cơ quan quản lý thuế cần yêu cầu các thiết bị ghi nhận doanh số hoặc máy tính tiền phải kết nối với cơ quan thuế hoặc được cung cấp bởi các tổ chức đã được kiểm định của Nhà nước nhằm hạn chế người bán can thiệp để thay đổi dữ liệu bán hàng.

Thứ mười, theo thống kê của Bộ Tài chính, từ năm 2018 đến năm 2021, số vụ vi phạm thủ tục thuế tăng mạnh theo từng năm: năm 2018, có có 34.837 vụ vi phạm thủ tục thuế và 10.557 vụ vi phạm về hóa đơn, thì đến năm 2019, con số tương ứng là 103.381 và 27.535. Năm 2021, số vụ vi phạm thủ tục thuế là 192.174 và vi phạm về hóa đơn là 45.513.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do mức phạt tiền thấp nên chưa đảm bảo tính phòng ngừa, chưa đủ nghiêm khắc để người nộp thuế nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thuế đối với nghĩa vụ đăng ký thuế và khai các chỉ tiêu trên hồ sơ khai thuế. Việc Nhà nước tăng mức xử phạt vi phạm hành chính về thuế theo Nghị định số 125/2020/NĐ-CP đã góp phần chống thất thu, giảm nợ thuế, đồng thời thu đúng, đủ kịp thời tiền thuế vào NSNN.

Nghị định số 125/2020/NĐ-CP cũng khắc phục những tồn tại hạn chế, bất cập của các quy định về xử lý vi phạm hành chính về thuế hiện hành, qua đó đảm bảo tính công khai minh bạch, thống nhất, công bằng trong áp dụng pháp luật, góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế. Trong thời gian tới, cần tiếp tục tuyên truyền để DN hiểu rõ các quy định về chế tài hành chính, xử lý hình sự để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về thuế.

Kết luận

Thuế là một công cụ tài chính quan trọng không chỉ thể hiện ở việc tạo nguồn thu chủ yếu cho NSNN, mà còn là một công cụ hữu hiệu để Nhà nước tiến hành điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, góp phần điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối.

Tuy nhiên, đặc điểm của thuế là không hoàn trả trực tiếp, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất đối giá. Vì vậy, một số tổ chức, cá nhân vẫn còn tâm lý muốn chậm trễ, chiếm dụng tiền thuế làm phát sinh số thuế nợ đọng.

Vì thế, để chống thất thu, chống các hành vi gian lận thuế, thiết nghĩ Bộ Tài chính và các cơ quan hữu quan cần tiếp tục có thêm những chính sách và giải pháp cụ thể, đồng bộ gắn với tăng cường đội ngũ cán bộ, đầu tư cơ sở vật chất, phối hợp chặt chẽ với các có liên quan trong việc chống gian lận thuế. Đặc biệt, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền để nâng cao ý thức của DN, hạn chế đến mức tối đa các hành vi gian lận thuế đem lại hiệu quả trong thu thuế tăng nguồn thu cho ngân sách.     

Phạm Khánh Toàn – Chi cục Thuế khu vực Giá Rai – Đông Hải (Cục Thuế tỉnh Bạc Liêu)

Trích nguồn