![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Phát triển kinh tế xanh không chỉ là định hướng, khuyến khích mà là xu thế tất yếu phải thực hiện trước cuộc chơi hội nhập kinh tế toàn cầu. Các quyết sách gần đây của Đảng, Nhà nước xác định nhất quán Việt Nam phải gia nhập nhanh vào xu thế nói trên, coi đó là động lực của tăng trưởng. Để hoàn thành sứ mệnh này, Việt Nam phải có lộ trình xanh hóa nền kinh tế với nhiều trụ cột, trong đó tâm điểm là chính sách tiền tệ và tài khóa...
Việt Nam với cam kết mạnh mẽ đưa phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050 đã cho thấy quyết tâm của Đảng và Chính phủ trong việc phát triển nền kinh tế xanh, trung hòa carbon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu. Quyết tâm đó đã được hoạch định trong: “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050”.
Gần nhất là Quyết định 1658/QĐ-TTg, ngày 1/10/2021, của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 với mục tiêu tổng quát là tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nhằm đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường, công bằng về xã hội.
Khái niệm “tăng trưởng xanh” hiện đã được nhiều tổ chức trên thế giới đưa ra. Ủy ban Liên hợp quốc về kinh tế - xã hội khu vực châu Á - Thái Bình Dương (UNESCAP) định nghĩa tăng trưởng xanh là chiến lược để đạt được phát triển bền vững. Trong khi đó, Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng tăng trưởng xanh là hiệu quả trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm cũng như các tác động môi trường, có khả năng thích ứng trước các hiểm họa thiên nhiên và vai trò của quản lý môi trường và vốn tự nhiên trong việc phòng ngừa thiên tai...
Kinh tế xanh (green economy) là một nền kinh tế nhằm cải thiện đời sống con người và tài sản xã hội, đồng thời chú trọng giảm thiểu những hiểm họa môi trường và sự khan hiếm tài nguyên (theo Chương trình môi trường Liên hợp quốc, 2010). Ý nghĩa của kinh tế xanh: tạo ra việc làm, bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền vững và ngăn chặn ô nhiễm môi trường, nóng lên toàn cầu, cạn kiệt nguồn tài nguyên và suy thoái môi trường. |
Chủ trương, định hướng về phát triển nền kinh tế xanh đã rất rõ, vấn đề cụ thể hóa thành các chính sách và thực thi chính sách có hiệu quả, thúc đẩy mọi chủ thể trong nền kinh tế là doanh nghiệp, người dân cùng hành động theo đuổi mục tiêu chung là vô cùng cần thiết. Vì vậy, xanh hóa nền kinh tế phải bao hàm ba trụ cột gồm: (i) xanh hóa các chính sách phát triển; (ii) xanh hóa quản trị kinh doanh bằng việc theo đuổi các phương án, dự án xanh, sản phẩm xanh; (iii) xanh hóa lối sống và tiêu dùng.
Khi Việt Nam chú trọng việc tăng trưởng xanh và phát triển xanh trong quá trình chuyển dịch năng lượng thì có thể tiếp cận được nguồn tài chính xanh từ các tổ chức quốc tế đã được các nước phát triển cam kết. Cụ thể, trong chuyến thăm của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính sang Liên minh châu Âu (EU), EU đã cam kết hỗ trợ 15,5 tỷ USD cho Việt Nam trong quá trình chuyển dịch năng lượng để tăng trưởng xanh.
Nhìn về dài hạn, Việt Nam là quốc gia bị ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu khi mất đi 1,5% GDP mỗi năm, theo tổng kết của WB. Vì vậy, nếu thực hiện tốt chiến lược tăng trưởng xanh và phát triển xanh sẽ mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam. Có thể nói, đây thời điểm tốt nhất để khuyến khích phát triển kinh tế xanh và tăng trưởng xanh nhằm tạo ra động lực mới cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới.
Kiến tạo ra cơ chế chính sách để khuyến khích phát kinh tế triển xanh chính là trụ cột đóng vai trò quan trọng nhất, vừa có tính chất mở đường, vừa quyết định cho phát triển kinh tế xanh. Đây là trụ cột cần được xanh hóa trước tiên.
Hiểu theo nghĩa bao trùm, các chính sách tổng thể để huy động các nguồn lực từ tài chính, nguồn tài nguyên thiên nhiên, đến con người cho phát triển kinh tế đều hướng đến phát triển xanh; đó là: chính sách tiền tệ xanh; chính sách tài khóa xanh; chính sách năng lượng xanh; chính sách giao thông xanh; chính sách xây dựng xanh…
Cách đi này đã được phân chia nhiệm vụ các bộ, ngành tại quyết định Quyết định số 403/QĐ-TTg ngày 20/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 – 2020.
Ví dụ, nhiệm vụ giao cho Ngân hàng Nhà nước là: (i) rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện thể chế tài chính, tín dụng cho phù hợp với mục tiêu tăng trưởng xanh; (ii) tổ chức đào tạo tập huấn nhằm tăng cường năng lực cho các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính trong hoạt động tài chính tín dụng xanh; (iii) xây dựng và phát triển các dịch vụ tài chính ngân hàng hỗ trợ các doanh nghiệp tăng trưởng xanh.
Trong các mảng chính sách cần xanh hóa theo ngành nghề phát triển nêu trên, hai chính sách quan trọng nhất là chính sách tiền tiền tệ và chính sách tài khóa cần có lộ trình, bước đi cụ thể bằng việc tạo lập ra cơ chế, sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ và tài khóa để khuyến khích, thúc đẩy việc sử dụng nguồn lực của nền kinh tế cho tăng trưởng xanh.
Sơ đồ 1 cho thấy, thứ nhất, khi các ngân hàng thương mại có hồ sơ tín dụng cho vay trung hạn, dài hạn dự án xanh, nắm giữ trái phiếu xanh của doanh nghiệp được xếp hạng tín nhiệm cao, Ngân hàng Nhà nước có thể tái cấp vốn hoặc xem xét chiết khấu các trái phiếu xanh xếp hạng tín nhiệm cao với lãi suất thấp hơn, ví dụ giảm 0,5%/năm so với quy định. Điều này nhắm đến mục tiêu giải quyết 2 việc: (1) hỗ trợ giải quyết thanh khoản cho ngân hàng thương mại; (2) gián tiếp hỗ trợ giảm lãi suất tiền vay cho vay trung, dài hạn dự án xanh.
Thứ hai, trước đây Ngân hàng Nhà nước đã xem xét giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với nguồn tiền gửi của ngân hàng thương mại có tỷ lệ dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp từ 10% đến 20%, 30% và trên 50% theo các mức khuyến khích khác nhau, nay Ngân hàng Nhà nước có thể áp dụng chính sách này cho các ngân hàng thương mại có tỷ lệ dư nợ cho vay xanh cao từ 10% tổng dư nợ trở lên nhằm khuyến khích họ cân đối nhiều nguồn cho vay dự án, phương án sản xuất xanh.
Thứ ba, căn cứ Điều 10, Điều 11 Luật Ngân hàng Nhà nước 2010; Khoản 5, Điều 149 Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 quy định rất rõ “Chính phủ ban hành lộ trình thực hiện và cơ chế khuyến khích cấp tín dụng xanh”. Vì vậy, Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước trình việc thành lập và cơ chế hoạt động của quỹ tái cấp vốn xanh.
Về chính sách tiền tệ, Chính phủ có thể đẩy nguồn lực qua hệ thống ngân hàng vào các dự án xanh và phương án sản xuất xanh, thông qua việc giảm mức lãi suất tái cấp vốn và tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại, nhằm khuyến khích các ngân hàng cho vay các dự án xanh và sản xuất xanh, hỗ trợ ngân hàng có nguồn vốn trung và dài hạn nhiều hơn để tăng cường cho vay các dự án xanh. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước có thể giảm dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng cho vay nhiều vào các dự án xanh để dành nguồn vốn lớn hơn cho vay vào tăng trưởng xanh và kinh tế xanh như nêu trong diễn giải của sơ đồ 1.
Đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước cũng có thể hình thành Quỹ tái cấp vốn xanh từ Quỹ dự trữ ngoại hối. Trên thế giới, Ngân hàng Trung ương của Banglades cũng có quỹ tái cấp vốn xanh khoảng 200 triệu USD để khuyến khích các tổ chức tín dụng rót vốn vào các dự án xanh. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc và Ngân hàng Trung ương Ấn Độ sử dụng mức tín dụng sàn nhằm yêu cầu tất cả tổ chức tín dụng phải có tỷ lệ tối thiếu cho vay 5% vào các dự án xanh; từng bước nâng lên 10% trong lộ trình 3 đến 5 năm và lên đến 20% dư nợ cho vay đối với dự án xanh.
Đây là cách truyền tải chính sách phát triển xanh của Chính phủ đến các định chế tài chính, các doanh nghiệp và những người hoạt động kinh tế trực tiếp (tức là từ thị trường tài chính đến nền kinh tế thực). Việt Nam với Quỹ dự trữ ngoại hối tới 100 tỷ USD, việc thành lập quỹ tái cấp vốn xanh từ 500 triệu USD hoặc hơn là hoàn toàn khả thi xét cả về pháp luật cũng như năng lực tài chính.
Trên hành trình xanh hóa nền kinh tế, không thể không nhắc đến vai trò đặc biệt của chính sách tài khóa cùng sự góp mặt của các chính sách khác.
Đơn cử, Khi Nhà nước giảm thuế VAT vừa tiết giảm chi phí cho nhà sản xuất, vừa khuyến khích tiêu dùng xanh nhiều hơn và đến lượt nó lại kích thích sản xuất xanh. Hay như, tuy đã có kinh nghiệm về giá Fix với năng lượng điện mặt trời, nhưng vẫn cần có khảo sát thị trường, đánh giá thấu đáo và có lộ trình áp dụng để không bị lợi dụng.
Ngoài ra, trong văn bản pháp luật về dự thầu, nếu sản phẩm của bên dự thầu các dự án công thì được cộng điểm (ví dụ: tối thiểu là 10 điểm tùy theo thang điểm) để đơn vị sản xuất xanh cạnh tranh tốt với đơn vị sản phẩm cung ứng không xanh. Nếu hai đơn vị bằng điểm nhau thì bên sản phẩm xanh được lựa chọn.
Với chính sách phát triển ngành, tùy theo chức năng nhiệm vụ, các bộ, ngành sau sắp xếp tinh gọn cần phải xây dựng các chính sách cụ thể để hướng các doanh nghiệp, người dân phát triển kinh tế, tiêu dùng xanh. Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam cần từng bước minh bạch hóa nguồn năng lượng sử dụng, nếu không tất cả các hàng hóa xuất khẩu phải đánh thuế carbon thì khó rất cạnh tranh với các nước trên thế giới.
Việt Nam đã có Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Nghị định số 80/2021/NĐ-CP về hướng dẫn Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa về hỗ trợ những chi phí tư vấn, đào tạo trong quản trị, phát triển quản trị trong doanh nghiệp; hỗ trợ về quản trị, tư vấn kiểm toán đối với doanh. Song, phần lớn doanh nghiệp không nhận được hỗ trợ này vì thủ tục rất phức tạp. Vì vậy, thời gian tới, các chính sách này cần phải minh bạch, giảm bớt các thủ tục hành chính và không tạo ra cơ chế xin – cho, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận hỗ trợ. |
Không những vậy, Việt Nam cũng sẽ mất đi cơ hội đón các “đại bàng” lớn vào Việt Nam vì họ đòi hỏi năng lượng sạch để xuất khẩu hàng hóa đi toàn cầu. Trên thực tế, EU đã có lộ trình cho quy định này là trong 3 năm, còn Mỹ và Caribe – khu vực Nam Mỹ, sẽ không có lộ trình nếu như có luật thì thực hiện luôn. Vì vậy, Nhà nước rất cần thể chế hóa nhanh đối với từng ngành và lĩnh vực.
Song song với chính sách tiền tệ, tài khóa, cuộc chơi xanh hóa nền kinh tế còn phải chú trọng đến chiến lược xanh hóa quản trị doanh nghiệp cũng như tiêu dùng.
Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xây dựng Dự thảo định mức chi phí tái chế theo hướng hợp lý, thực thi tái chế hiệu quả, giúp bảo vệ môi trường và thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Vì vậy, đây là thời điểm các doanh nghiệp cần sớm hoàn thiện mô hình phát triển kinh tế tuần hoàn, hoặc mô hình sản xuất xanh, sạch từ nguyên liệu đầu vào đến sản phẩm cung ứng ra thị trường. Cao hơn mô hình phát triển xanh, kinh tế xanh là mô hình phát triển bền vững, doanh nghiệp phải đạt được ba chuẩn mực về ESG (môi trường, xã hội và quản trị) với 17 mục tiêu về phát triển bền vững mà Việt Nam đã cam kết với Liên hợp quốc và đã được cụ thể hóa với hành vi xanh hóa của các doanh nghiệp.
Cùng với đó, đối với vấn đề xanh hóa lối sống và tiêu dùng, Nhà nước cần truyền thông mạnh mẽ để người dân sớm trở thành những người tiêu dùng thông minh, khi mua sắm phục vụ tiêu dùng cần tìm đến các sản phẩm đã được công bố chuẩn mực về xanh, môi trường (tức là bảo vệ môi trường và sức khỏe của bản thân).
Lối sống này không chỉ trong dân cư mà cần phải thực hiện trong các cơ quan công sở và công chức làm việc. Ngoài ra, người dân cũng cần nhận thức và sẽ tẩy chay tất cả những sản phẩm không thân thiện với môi trường, thậm chí tẩy chay những sản của doanh nghiệp công bố là xanh nhưng thực chất là hoạt động tẩy xanh (....)